HỌC CÁCH GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI DO
THÁI
Thông
minh như người Do Thái
Hãy nhớ câu khen
“Thông minh như Do Thái”. Nếu IQ trung bình trên thế giới là 100, thì dân tộc
Do Thái có IQ trung bình là 110.
Và nếu một dân
tộc A có chỉ số IQ trung bình là 100 thì tỉ lệ người có khả năng thành thiên
tài sẽ là 0,4%, nhưng với mức 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có
khả năng thành thiên tài này sẽ lên tới 2,3%, nghĩa là cứ 1.000 người sẽ có 23
thiên tài, cao gấp 6 lần mức của dân tộc A kia.
Vậy cho nên chỉ
với 13 triệu người – chỉ bằng 0,2% dân số thế giới, số người Do Thái hay người
có gốc Do Thái thành danh lại nhiều hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới.
Trong cả 6 lĩnh
vực được xét giải Nobel là văn chương, y sinh học, vật lý học, hóa học, kinh tế
và hòa bình, chưa hề có một chủng tộc nào trên thế giới có thể sánh được với Do
Thái bởi họ thành danh trên cả 6 lĩnh vực này. Đến năm 2011, chỉ riêng các nhà
khoa học Israel (người Do Thái mang quốc tịch Israel – một quốc gia vỏn vẹn 7,8
triệu dân, xấp xỉ dân số TP. Hồ Chí Minh) đã giành đến… 10 giải Nobel.

Người Do Thái tài giỏi,
điều này không ai phủ nhận nổi, nhưng nguyên nhân là gì?
Tính
hiếu học đặc biệt
Có nhiều tài
liệu, công trình khoa học lý giải việc này bằng các yếu tố về gien, về hoàn
cảnh lịch sử – xã hội của cộng đồng Do Thái, về tính hiếu học đặc biệt của
người Do Thái.
Nếu hai yếu tố
đầu là các yếu tố đặc thù, không thể bắt chước được thì tính hiếu học của người
Do Thái hoàn toàn có thể là tấm gương để chúng ta tự soi mình và noi theo. Tính
hiếu học này được rèn luyện, hình thành và phát triển trong cả ba môi trường
gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình
Cha mẹ Do Thái
vô cùng chăm lo đến việc phát triển trí tuệ của con. Bà mẹ Do Thái dạy con từ
thuở còn… thai: khi mang thai, bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và còn làm
toán nữa cho đến khi sinh con ra.
Các thai phụ làm
vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn
ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá – khác với
thói quen thích ăn đầu cá của nhiều người Viêt Nam, cũng vì tin rằng tất cả
điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái.
Từ lúc còn ẵm
ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng cái mẹo
là nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non
nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn.
Dù kinh tế khó
khăn, phụ nữ Do Thái vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống
cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con
học.
Nhờ sự chăm sóc,
động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích
học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác học kiểu
được chăng hay chớ và dễ dàng bỏ học để đi làm với lý do phụ giúp cha mẹ.
Vào năm 1954, hệ
thống trường công của thành phố New York phát hiện ra 28 học sinh có chỉ số IQ
cực cao – 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái.
Nhà
trường
Nhà trường Do
Thái không chỉ chăm bẵm lo truyền thụ thật nhiều kiến thức lý thuyết mà còn chú
ý trau dồi nhân cách học sinh.
Học sinh Do Thái
nào cũng phải chơi nhạc cụ piano hay violon, nhờ đó mà khả năng cảm thụ cái đẹp
và sự nhạy cảm được bồi bổ. Qua học bắn cung, bắn súng hay chạy bộ, trẻ em
luyện được khả năng tập trung và tính kiên trì.
Tiếng Do Thái là
ngôn ngữ chính và thứ nhất của quốc gia, được đa số dân cư sử dụng. Tiếng Anh
được dạy trong các trường học và đa phần dân cư coi đó là ngôn ngữ thứ hai. Do
đặc điểm dân cư tụ về quốc gia này vốn sinh sống từ nhiều nước nên các ngôn ngữ
khác được dùng ở Israel còn có tiếng Nga, tiếng Pháp và một số ngôn ngữ khác.
Thông thường,
học sinh Israel có thể nói được ba thứ tiếng. Nếu thành ngữ Pháp nói “Một người biết thêm ngôn ngữ thứ hai thì bằng hai người” là
đúng thì một trẻ em Israel sẽ có thể bằng… ba người.
Tính dạn dĩ của
học sinh luôn được khuyến khích bởi người Do Thái quan niệm hỏi cũng quan trọng
như trả lời. Hỏi quan trọng không kém đáp bởi đòi hỏi khả năng quan sát và suy
nghĩ, công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. Chẳng lạ gì mà người Do Thái
luôn nổi bật về tính độc lập suy nghĩ và tài lập luận.
Nhà trường Do
Thái rất coi trọng tính thực hành. Trong thời khóa biểu, ngoài các môn học
thường gặp ở mọi nhà trường, cấp tiểu học Do Thái còn có môn kinh doanh. Từ
trung học, học sinh học giảm dần các môn lý thuyết mà chuyển dần qua học cách
tạo ra “sản phẩm” với các bài tập thực tế.
Tất cả “sản
phẩm” của học sinh dù còn ngây ngô nhưng đều là những thử thách thật sự nghiêm
túc với người tạo ra chúng và những sản phẩm có ý tưởng tốt có thể được giới
thiệu lên các viện hay trường đại học để khai thác.

Xã hội
Xã hội Do Thái
là một xã hội đặt trí tuệ vào bậc cao nhất trong thang giá trị. Do vậy mà cứ
điều gì có hại cho trí tuệ là người Do Thái cố tránh, có lợi cho trí tuệ thì họ
cố làm, từ chuyện “vặt” như hút thuốc lá đến chuyện trọng đại như lập gia đình.
Người Do Thái
rất bài trừ thuốc lá, cho nên dù là khách quý vào nhà mà hút thuốc cũng sẽ bị
chủ nhà lịch sự mời ra ngoài. Đơn giản bởi các nhà khoa học Do Thái chứng minh
rằng nicotine trong thuốc lá làm thoái hóa tế bào não.
Xã hội Do Thái
từ rất sớm đã rất coi trọng việc xóa mù chữ, coi trọng sách và người có học
thức. Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới – từ năm 64 đầu Công
nguyên – mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán;
sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình
đọc, viết, tính toán.
Như vậy họ đã
thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác hàng mười mấy
thế kỷ. Israel là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng
đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân.
Không một người
Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu
hiểu biết. Ngay cả tại nghĩa trang, người ta cũng để sẵn sách vì tin rằng những
đêm có trăng, các linh hồn sẽ ra đọc sách.
Dân tộc Do Thái
coi trọng học giả, coi trọng người thầy. Họ phản ánh sự tôn trọng trong câu đố
cho trẻ con là “Nếu thầy và cha con bị bắt mà con chỉ có thể cứu được một người
thì con cứu ai?” và đáp án đúng là cứu thầy – vì thầy truyền đạt tri thức cho
xã hội. Tri thức được trọng vọng hơn của cải,
hơn cả chức tước. Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri
thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp
đoạt được.
Người Do Thái đã
tự khai sáng mình ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người như vậy đấy và
thành quả mà con cháu họ đạt được ngày nay trong nhiều lĩnh vực đời sống là kết
quả tất yếu, là sự tưởng thưởng xứng đáng.
Người Việt Nam
phải phục họ vì không có gì phải xấu hổ… Chúng ta cần
quyết tâm tự khai sáng noi theo dân tộc Do Thái, cùng đồng tâm nhất trí loại
trừ những thói quen gây hại cho việc phát triển trí tuệ trong cả ba môi trường
giáo dục là gia đình, nhà trường và xã hội, cùng nhau hình thành thang giá trị
mới, trở nên thật sự hiếu học và có thói quen học suốt đời…
THEO TS. HỒ THIỆU HÙNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét