Nhãn

Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017

SỐNG NHƯ KHÔNG BAO GIỜ CHẾT
Kết quả hình ảnh cho tháng các linh hồn


“Đời sống con người chóng qua như cỏ.
Như bông hoa nở trong cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi,
Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”.

(Tv. 102:3)
Một thực tế trước mắt, một sự thật trần trụi về thân phận và số kiếp con người mà hầu như không mấy ai quan tâm, suy nghĩ. Nó chỉ đụng chạm đến một chút tình cảm khi có người thân hoặc ai đó mà mình quen biết qua đời. Nhưng dù muốn hay không muốn, từ trong sâu thẳm của linh hồn, hình ảnh cái chết đôi lúc cũng khiến chúng ta phải dừng lại để suy niệm.
Chúng ta có bao giờ đọc hoặc nghe và suy nghĩ về câu nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa? Ngài nói: “Người ta ai cũng phải chết, nhưng ai cũng sống như mình không bao giờ chết!”
Sống và chết là hai phạm trù đối nghịch nhưng lại bổ túc cho nhau khi nói về thân phân và cuộc đời con người trên dương thế. Có sinh thì phải có tử. Có sống thì phải có chết. Và ai ai cũng phải chết. Tuy nhiên, sống làm sao và chết như thế nào mới là điều khiến mỗi người chúng ta phải suy nghĩ. Có những người mà ngay cả khi còn sống và sau khi chết không ai muốn nhắc đến tên tuổi của họ. Cái chết của họ được xem như một điều may mắn, vui mừng cho nhiều người, có khi cho cả một dân tộc. Thánh Kinh đã nói đến cái chết kiểu này mà lời nguyền rủa xem như áp dụng rất đúng cho những người đã bán rẻ lương tâm, bán rẻ anh em, bán rẻ dân tộc, bán rẻ đồng bào vì những lợi lộc trần gian: “Con Người sẽ ra đi như lời đã viết về Ngài, nhưng khốn cho kẻ đã phản bội Ngài, thà hắn đừng có sinh ra thì hơn!” (Mt 26:24)
Thế nên, để sống cuộc đời có ý nghĩa và để người đời còn nhớ tới mình sau khi đã chết, lời khôn ngoan đã khuyên dạy chúng ta:
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.”
 (TV 90:12)
“Đếm tháng ngày mình sống” đồng nghĩa với suy niệm về cái chết, về một ngày không xa mình sẽ phải bỏ lại tất cả khi từ giãi cõi đời. Bởi vì mỗi ngày qua đi là một ngày ta tiến gần đến cái chết.
Như vậy, suy nghĩ về những ngày giờ mình sống trên dương thế để tìm ra ý nghĩa khôn ngoan cho cuộc sống không những giúp ta sẵn sàng khi phải đối diện với cái chết, mà còn giúp cho ta sống tốt, sống hạnh phúc ngay ở đời này nữa. Một cuộc sống không buông thả, lo lắng, buồn phiền, mánh mung, chộp giật như cái nhìn của những người cứ nghĩ rằng mình không bao giờ chết, muốn sống lâu, sống hưởng thụ để rồi phải hối hận, cay đắng bỏ lại tất cả khi giờ chết đến.
Từ trong cái triết lý sâu thẳm của nó, chết còn được coi như là một mầu nhiệm: “Mầu nhiệm sự chết!”
Gọi chết là một mầu nhiệm, vì từ trước tới giờ chưa có ai thoát được cái chết. Ai cũng phải chết: trẻ con chết, người trung niên chết, người cao niên chết. Người giàu sang, quyền quí, người nghèo khổ, dân dã, người học thức, người bình dân, đơn sơ tất cả đều phải chết. Nhưng không ai biết mình sẽ chết cách nào, chết ở đâu và chết khi nào?! Với hàng trăm, ngàn, vạn kiểu cách và cái chết khác nhau không ai giống ai đã tạo cho cái chết một hình ảnh đầy bí ẩn. Ngoài ra, những gì sẽ diễn ra bên kia sau cái chết, số phận của mỗi người sẽ ra sao mãi mãi cũng vẫn là một bí mật!
Tóm lại, suy về sự chết, chuẩn bị cho ngày, giờ chết đối với các bậc thánh nhân, những hiền nhân quân tử chính là một hành động khôn ngoan. Một sự khôn ngoan của những tâm hồn công chính, của những con người sống đời sống xứng đáng với thân phận và kiếp người: “Khởi đầu khôn ngoan là lòng kính sợ Thiên Chúa và hiểu biết Đấng Chí Thánh mới là sự hiểu biết thật.” (Proverbs 9:10)
Lòng kính sợ Thiên Chúa sẽ dẫn đến khôn ngoan, và hiểu biết về Ngài mới là sự hiểu biết thật. Đây là sự khôn ngoan chân thật, sự hiểu biết cần thiết để giúp con người sống nên, sống đẹp và sống ý nghĩa cuộc sống này. Nó giúp cho con người biết đâu là giá trị thật và đâu là những cám dỗ, những đam mê, những ích kỷ, hẹp hòi cần phải từ bỏ, phải xa tránh.
Tóm lại, sống để chuẩn bị cho cái chết là một đời sống khôn ngoan. Riêng đối với người Kitô hữu thì sự khôn ngoan ấy còn dẫn họ đến chỗ nhận biết và chiếm hữu được Thiên Chúa, vì: “Điều quan trọng là khi thời gian đến, lúc ta phải ra đón Chúa Kitô như mười cô trinh nữ ra đón chàng rể, ngọn đèn tình yêu tức là lòng kính mến Thiên Chúa có còn cháy sáng hay không? Nếu luồng gió tội lỗi làm tắt ngọn đèn yêu mến trước giờ chết, ta còn có cơ hội thắp sáng lại bằng tinh thần thống hối. Nhưng nếu khi ta bước qua ranh giới sự chết mà đèn tắt, thì thời giờ đã chấm dứt!” (Sống Đạo Giữa Đời, tr.56).
“Người ta ai cũng phải chết”, do đó, ta không thể sống “như mình không bao giờ chết!”.
Trần Mỹ Duyệt

Chuyên gia Stanford tìm ra "hạt thiên thần", chứng minh lý thuyết 80 năm tuổi là sự thật


Chuyên gia Stanford tìm ra "hạt thiên thần", chứng minh lý thuyết 80 năm tuổi là sự thật
Hình minh họa.

Hạt thiên thần là loại hạt có thể chứa cả các phản hạt trong cùng một thời điểm. Và lý thuyết này đến nay đã vừa tròn 80 tuổi.


Mọi vật trong vũ trụ đều được cấu tạo từ các hạt, và mọi loại hạt thì đều tồn tại một "phản hạt" (antiparticle) của chính nó. Đó là những hạt sơ cấp có khối lượng tương đương, nhưng mang điện tích trái dấu - ví dụ như positron và electron.
Nếu như hạt và phản hạt gặp nhau, chúng sẽ ngay lập tức bị tiêu biến trong tích tắc. Tuy nhiên, giới khoa học từ lâu đã tin vào một lý thuyết, rằng có một số loại hạt đứng ngoài quy luật này. Tức là, chúng là các hạt nhưng lại sở hữu phản hạt trong cùng một thời điểm.
Và mới đây, các chuyên gia từ ĐH Stanford và ĐH California đã tìm ra bằng chứng vững chắc về sự tồn tại của loại hạt như vậy. Họ gọi đó là "hạt thiên thần", và nó đã chứng minh lý thuyết 80 năm tuổi là đúng sự thật.
Cụ thể, ý tưởng về hạt và phản hạt đã xuất hiện từ năm 1937, do nhà vật lý học người Ý Ettore Majorana đưa ra. Ông cho rằng các hạt vật chất fermion (bao gồm proton, electron, neutron...), sẽ có một số hạt thực sự sở hữu phản hạt bên trong. Ngày nay, khoa học gọi các hạt như vậy là hạt Majorana.
Chuyên gia Stanford tìm ra hạt thiên thần, chứng minh lý thuyết 80 năm tuổi là sự thật - Ảnh 1.
Ettore Majorana - người đã đặt ra lý thuyết về hạt thiên thần
Để chứng minh lý thuyết của Majorana, nhóm chuyên gia đã dính các tấm phim chứa 2 vật liệu lượng tử, sau đó cho một dòng điện chạy qua trong một môi trường chân không.
Một trong hai tấm phim là vật liệu siêu dẫn, tấm còn lại là chất cách điện từ trường tô-pô (topological - một dạng không gian mà các đặc tính của vật chất còn được bảo toàn qua các sự biến dạng).
Tiếp theo, họ đưa một nam châm chạy qua, qua đó giúp xác nhận được tốc độ của electron. Tuy nhiên trong quá trình này, họ nhận thấy các phản hạt vẫn bắt cặp được với electron.
Cần lưu ý rằng, nhóm chuyên gia không thực sự nhìn thấy các hạt "thiên thần" này. Đúng hơn, họ nhận ra "các dấu hiệu cơ bản về vật chất bị kích thích, hoạt động giống hạt Majorana." - trích lời giáo sư Giorgio Gratta từ ĐH Stanford.
Chuyên gia Stanford tìm ra hạt thiên thần, chứng minh lý thuyết 80 năm tuổi là sự thật - Ảnh 2.
Ngoài ra, Gratta cho biết họ cũng chưa rõ các hạt thiên thần này có xuất hiện trong tự nhiên hay không. "Có vẻ như chúng rất khó xảy ra ở bất kỳ đâu trong vũ trụ." Vậy nên, ông muốn gọi kết quả nghiên cứu này là "pháo hiệu" cho thấy sự tồn tại của loại hạt này.
"Chúng tôi có thể dự đoán chuẩn xác nơi nào có thể tìm ra hạt Majorana, nhờ vào các dấu hiệu có được trong thí nghiệm." - giáo sư Shoucheng Zhan từ Stanford chia sẻ. "Ngoài ra, phát hiện này cũng xác nhận được một trong những lý thuyết cơ bản nhưng lâu đời nhất của vật lý học."
Nguồn: New Atlas, IFL Science

Trái Đất nặng 5,972 x 10^24 kg, nhưng làm cách nào người ta cân được chính xác đến vậy?


Trước tiên, chúng ta phải biết Trái Đất là gì trong vũ trụ bao la.
Trái Đất nặng 5,972 x 10^24 kg, nhưng làm cách nào người ta cân được chính xác đến vậy? - Ảnh 1.
Hình minh họa.
Trái Đất là hành tinh thứ 3 trong Hệ Mặt Trời, hình thành cách đây 4,6 tỷ năm và là hành tinh duy nhất có sự sống. Đây cũng là hành tinh lớn thứ 5 trong Hệ Mặt Trời.
Khoảng cách trung bình từ Mặt Trời đến Trái Đất là 149.597.890 km. Nhờ có không khí và nước bao phủ 70,8% Trái Đất, nên sự sống đa dạng sinh sôi và phát triển.
Trái Đất độc đáo bởi là hành tinh mặt đất lớn nhất, căn cứ vào khối lượng, mật độ và đường kính. (Hành tinh mặt đất nghĩa là được kiến tạo bằng lớp đá mỏng, trái ngược lại các hành tinh do chất khí tạo thành như sao Mộc và sao Thổ).
Kích thước Trái Đất
Vì là hành tinh mặt đất lớn nhất nên Trái Đất nặng 5,972 × 10^24kg. Hơn nữa, Trái Đất bao gồm lớp vỏ trong, vỏ ngoài và lõi nên được coi là hành tinh có mật độ đất đá dày đặc nhất.
Vỏ ngoài của Trái Đất là những lớp đất đá mỏng nhất. Lớp vỏ bên trong chiếm 84% thể tích Trái Đất và trải rộng 2.900km dưới mặt đất.
Trái Đất nặng 5,972 x 10^24 kg, nhưng làm cách nào người ta cân được chính xác đến vậy? - Ảnh 2.
Hình minh họa.
Tuy nhiên, phần dày đặc nhất của Trái Đất lại là lõi. Trái Đất là hành tinh mặt đất duy nhất có lõi ngoài bằng chất lỏng bao quanh lõi bên trong rắn chắc.
Mật độ đất đá trung bình của Trái Đất là 5.515 × 10 kg/m3, khác với sao Hỏa - là hành tinh mặt đất nhỏ nhất, chỉ dày đặc bằng 70% so với Trái Đất.
Trái Đất được xếp là hành tinh mặt đất lớn nhất còn bởi chu vi và đường kính của nó. Dựa vào đường xích đạo, chu vi của Trái Đất là 4.007.516km.
Đường xích đạo Trái Đất là 127.561 km, nhưng chu vi ở Bắc Cực và Nam Cực nhỏ lại thành 40.008km. Sao Mộc mới là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời, với đường kính 142.984 km.
Hình dạng Trái Đất
Chu vi và đường kính của Trái Đất khác biệt bởi hình dạng của Trái Đất là hình cầu dẹt hay hình bầu dục, không phải là quả cầu tròn.
Nghĩa là chu vi Trái Đất không đều nhau, đường xích đạo phình ra làm đường kính và chu vi Trái Đất lớn hơn.
Đường xích đạo phình ra 4.272km nên làm cho hành tinh chúng ta xoay tròn và có lực hấp dẫn thu hút những thứ trên không trung và tạo thành hình cầu.
Vì thế, Trái Đất luôn có xu hướng kéo mọi thứ về phía trọng tâm lực hấp dẫn  lõi Trái Đất.
Bởi Trái Đất xoay tròn nên quả cầu bị lực ly tâm bóp méo làm đẩy xa mọi thứ ra khỏi trọng tâm lực hấp dẫn.
Do đó, khi Trái Đất xoay tròn, lực ly tâm trên đường xích đạo là mạnh nhất, đẩy chỗ phình ra xa, làm cho chu vi và đường kính rộng ra.
Địa hình địa phương giữ vai trò quan trọng đối với hình dáng Trái Đất nhưng trên quy mô nhỏ.
Điểm khác biệt lớn nhất về địa hình địa phương trên toàn thế giới là núi Everest – điểm cao nhất so với mức nước biển là 8.850m. Và Rãnh Mariana là điểm thấp nhất so với mức nước biển là 10.924m. Sự chênh lệch chỉ là 19km nhưng bao hàm mọi điều.
Nếu coi đường xích đạo phình ra là điểm cao nhất và cách xa tâm điểm Trái Đất nhất thì phải nói đến đỉnh núi lửa Chimborazo ở Ecuador. Đỉnh núi cao 6.267m, được coi là đỉnh núi cao nhất và gần đường xích đạo nhất.
Đo đạc Trái Đất
Đo lường là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu và đo đạc, khảo sát, tính toán cho chúng ta biết kích thước và hình dạng Trái Đất.
Từ xa xưa, đo lường đã là ngành khoa học quan trọng thu hút nhiều nhà khoa học và hiền triết nghiên cứu xác định hình dáng Trái Đất.
Nhà hiền triết Aristotle (384 – 322 trước CN), người Hy Lạp, là người đầu tiên tính toán ra kích thước Trái Đất nên được coi là nhà đo lường đầu tiên.
Trái Đất nặng 5,972 x 10^24 kg, nhưng làm cách nào người ta cân được chính xác đến vậy? - Ảnh 4.
Chân dung nhà hiền triết Aristotle.
Sau đó, nhà hiền triết người Hy Lạp Eratosthenes (276 – 194 trước CN) ước tính chu vi Trái Đất chỉ chênh lệch so với phép tính ngày nay một chút.
Để nghiên cứu Trái Đất và đo lường như ngày nay, các nhà nghiên cứu thường dùng thể elip, thể địa cầu và các phép tính toán.
Thể elip là hình mẫu giả thuyết thuật toán cho thấy đặc tính đơn giản và mềm mại của bề mặt Trái Đất. Nên thể elip được dùng để đo khoảng cách bề mặt mà không cần tính đến những yếu tố khác, như: biến đổi độ cao và địa hình.
Để tính toán thực tế của bề mặt Trái Đất, các nhà đo lường dùng thể địa cầu tròn xoe, nghĩa là có tính đến biến đổi độ cao.
Nền tảng của chuyên ngành đo lường ngày nay là các phép tính toán. Những cuộc khảo sát toàn cầu thường tham khảo các bộ dữ liệu.
Trong nghành đo lường, có 2 phép tính toán chính được dùng trong giao thông và định vị tại Mỹ, làm nên Hệ thống tham vấn không gian.
Hệ thống vệ tinh  định vị toàn cầu ngày nay cho phép các nhà đo lường và các nhà khoa học tính toán chính xác tuyệt đối bề mặt Trái Đất. Chính xác đến mức các nhà nghiên cứu đo được mọi biến đổi nhỏ đến từng cm trên bề mặt Trái Đất để xác định chính xác hình dạng và kích thước "ngôi nhà chung của chúng ta".
Nguồn: Thought Co

Hơn 100 chuyên gia công nghệ kêu gọi Liên Hợp Quốc cấm ‘robot giết người’


Các chuyên gia hàng đầu thế giới về trí tuệ nhân tạo (AI) và robot đang lên tiếng báo động về hậu quả thảm khốc của việc tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang quốc tế nhằm phát triển vũ khí tự động gây chết người.

trí tuệ nhân tạo, robot giết người, hiểm hoạ,
Robot T-800 trong phim Kẻ hủy diệt có khả năng không còn là khoa học viễn tưởng. (Ảnh: Pinterest)

Hôm 21/8 vừa qua, hơn 116 chuyên gia đã cùng ký tên vào một bức thư gửi Liên Hợp Quốc cảnh báo rằng, “một khi được phát triển, những vũ khí tự động này sẽ cho phép xung đột vũ trang diễn ra trên quy mô lớn chưa từng thấy, và ở tốc độ nhanh hơn con người có thể tưởng tượng”.
“Chúng ta không có nhiều thời gian để hành động. Một khi chiếc hộp Pandora này được mở, sẽ rất khó để đóng lại”, các chuyên gia viết với sự thẳng thắn và lo ngại chưa từng có. Họ ví công nghệ “sát thương gây chết người” như một “chiếc hộp Pandora” trong thần thoại Hy Lạp.
Nhóm chuyên gia này đến từ khắp các châu lục bao gồm nhà sáng lập của các công ty AI và robot lớn như Elon Musk, CEO của Tesla và Mustafa Suleyman, chuyên gia về trí tuệ nhân tạo tại Google.
Những doanh nghiệp tư nhân này tạo ra các công nghệ có thể được các nhà nghiên cứu quân sự của chính phủ sử dụng để phát triển vũ khí tự động, vì vậy họ đã tiến hành một bước đi táo bạo nhằm đưa ra cảnh báo ở mức độ toàn cầu.
“Đây có thể và vũ khí khủng bố, vũ khí mà những kẻ chuyên quyền hoặc khủng bố dùng để chống lại người dân vô tội, và vũ khí bị hack để hoạt động theo cách không mong muốn”, các chuyên gia viết.
trí tuệ nhân tạo, robot giết người, hiểm hoạ,
Robot tên Han của công ty Hanson Robotics trên sân khấu trong một cuộc trình diễn trí tuệ nhân tạo (AI) tại Hội nghị Công nghệ RISE ở Hồng Kông vào ngày 12/7/2017. (Ảnh: LinkedIn)
Trong nhiều năm qua, Musk đã cảnh báo về những hiểm họa của vú khí trí tuệ nhân tạo. Thậm chí gần đây ông còn nói, mối đe dọa từ hệ thống vũ khí tự động còn nguy hiểm hơn cả nguy cơ chiến tranh hạt nhân với Triều Tiên.
Theo báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch), các siêu cường quốc trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Anh, Israel và Hàn Quốc đều đang chạy đua để phát triển hệ thống vũ khí tự động. Và như lá thư khẳng định, việc này có thể “trở thành cuộc cách mạng thứ 3 trong chiến tranh”.
“Không giống như những vấn đề tiềm tàng khác của AI vẫn còn xa vời như khoa học viễn tưởng, hệ thống vũ khí tự động hiện đang trên đỉnh của sự phát triển và rất có thể gây hại cho con người cũng như làm bất ổn toàn cầu”, Ryan Gariepy, người sáng lập của Clearpath Robotics và là người đầu tiên ký tên trong lá thư gửi tới Liên Hợp Quốc nói với CNN.
Bức thư của các chuyên gia AI dự định sẽ được đưa ra vào cuộc họp của Liên Hợp Quốc giữa các chuyên gia về AI, dự kiến diễn ra trong thứ Hai, 21/8. Tuy nhiên, cuộc họp đã bị hoãn đến tháng 11 do một số nước thành viên không đóng phí.
Giáo sư người Úc Toby Walsh, người đưa ra ý tưởng về bức thư, cũng cảnh báo rằng công nghệ AI do các công ty phi chính phủ phát triển trên toàn thế giới hiện nay có thể được dùng vào hệ thống vũ khí để “công nghiệp hoá chiến tranh”. Ông kêu gọi LHQ ra lệnh cấm robot giết người giống như vũ khí hóa học .
Theo NTDTV