Nhãn

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2020

Ba câu chuyện đáng suy ngẫm về tình bạn.
Ba câu chuyện đáng suy ngẫm về tình bạn  
Quy luật cuộc sống luôn tuân theo quy luật của tự nhiên, hoa nở rồi lại tàn, tuyết rơi tuyết lại tan, thời gian trôi qua không bao giờ trở lại. Bạn bè tuy nhiều nhưng cuối cùng liệu còn mấy người bên cạnh lúc khó khăn. Ba mẫu chuyện nhỏ dưới đây sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về tình bạn và biết trân quý hơn những người còn lại ở bên mình.

1. Câu chuyện thứ nhất: Quả trứng gà.

Tú An không thích ăn trứng, cô vẫn thường mang cho Huyền những quả trứng gà mình có. Việc làm ấy khiến Huyền vô cùng cảm kích, trong lòng thầm cảm ơn Tú An.
Nhưng lâu dần thành quen, và quen rồi thì thành “đương nhiên”, Huyền cho rằng trứng gà cũng là của mình. Một ngày, Tú An cho bé Bi một quả trứng gà, Huyền đã giận dữ bỏ đi mà không nói với Tú An một lời. Cô đã quên mất rằng trứng gà vốn là của Tú An, cô ấy có thể đem cho bất kỳ ai tùy ý.
Đôi khi, vì quá quen thuộc với những điều tốt đẹp người khác dành cho mình mà chúng ta cho rằng đó là lẽ đương nhiên. Tới một ngày, khi mọi chuyện xảy ra không như mong đợi, ta lại trách họ “bất công” và quay ra oán thán mọi người…
  

2. Câu chuyện thứ hai: Đôi dép giữa trời nóng bỏng.

Vào một ngày hè nóng nực, một nhóm bạn cùng nhau leo núi. Khi lên đến lưng chừng núi thì cô gái bất cẩn làm rơi chiếc dép xuống khe đá. Trên nền đất toàn sỏi đá, cô gái không thể bước tiếp với đôi chân trần ấy được. Thế là, cô gái bèn nhờ cậy sự giúp đỡ của mọi người.
Có người đồng ý cõng cô đi một đoạn, có người thì dìu cô bước tiếp, nhưng không một ai nguyện ý cho cô mượn đôi dép của mình. Vậy là, cô gái phải tiếp tục bước đi với đôi chân trần sưng tấy. Trong lòng cô cảm thấy không vui, cho rằng người khác thấy mình gặp nạn mà không ai mảy may đoái hoài.
Kỳ thực, không phải những người khác không tốt, mà là yêu cầu của chúng ta vượt quá khả năng của họ, chúng ta chỉ quen nhận mà quên mất rằng người khác cũng đang hy sinh lợi ích của chính mình…

3. Câu chuyện thứ ba: Chú Dê và những người bạn.

Vào buổi chiều muộn, một chú dê thơ thẩn dạo chơi trên sườn núi. Bỗng nhiên từ đâu một con hổ lao ra như muốn nuốt sống chú dê tội nghiệp. Dê bèn nhảy dựng lên, gắng gượng húc cái sừng chống cự, đồng thời kêu lớn cầu xin bạn bè cứu giúp.
Từ trong đám cỏ, trâu liếc nhìn về phía tiếng kêu cứu, nhìn thấy hổ bèn bỏ chạy thục mạng.
Ngựa cúi đầu nhìn xuống, phát hiện là hổ cũng nhanh như gió chạy thẳng một mạch.
Lừa dừng bước, biết là hổ cũng ba chân bốn cẳng chạy trốn vào khe núi.
Lợn đi qua, nghe thấy tiếng hổ cũng chạy biến đi đâu mất.
Thỏ vừa thấp thoáng nhìn thấy bóng hổ, cũng rùng mình trốn vào trong bụi rậm.
Cách đó không xa, voi nghe thấy tiếng dê kêu cứu liền vội vàng chạy đến. Voi nhảy ra từ đám cỏ, nó lấy thân hình bệ vệ của mình để thị uy khiến hổ phải hoảng hốt quay đầu bỏ chạy.
Dê thoát nạn trở về nhà, tất cả bạn bè đều tụ tập đông đủ.
Trâu nói: “Sao cậu không bảo tôi một tiếng? Sừng của tôi có thể đâm thủng ruột lão hổ”.
Ngựa nói: “Sao cậu không bảo tôi một tiếng? Guốc của tôi có thể đá nát đầu lão hổ”.
Lừa nói: “Sao cậu không bảo tôi một tiếng? Tôi chỉ cần hét lên là lão hổ sợ chạy mất mật”.
Lợn nói: “Sao cậu không bảo tôi một tiếng? Tôi dùng miệng nhấc bổng lên thì lão hổ ngã ngay xuống núi”.
Thỏ nói: “Sao cậu không bảo tôi một tiếng? Tôi chạy rất nhanh, tôi có thể đi báo tin giúp cậu”.
Trong đám bạn bè huyên náo ấy, duy chỉ có voi là vắng mặt.
  
Tình bạn đích thực không phải là những lời ngọt ngào trên môi, mà là bàn tay kịp thời nắm tay bạn vào thời khắc then chốt. Có những người chỉ biết thêu hoa trên gấm, chứ không biết đưa chiếc áo bông sưởi ấm những ngày đông; có những người chỉ biết thêm dầu vào lửa, chứ không biết làm hạ nhiệt lúc than bỏng dầu sôi.
Con người ta chỉ đến khi sa cơ lỡ vận mới biết ai thật lòng, ai quan tâm đến mình. Rất nhiều người hàng ngày đều vây quanh bạn, mua vui cho bạn, nhưng chưa hẳn đã là người thật sự bên bạn lúc khó khăn.
Trong những người bước qua cuộc đời tôi, được gặp gỡ đã là khó khăn, được bầu bạn lại càng không dễ dàng. Nếu được ở bên nhau 1 năm đã là điều trân quý; có thể gìn giữ mối quan hệ ấy trong 2 năm thì càng đáng trân quý vạn phần; còn nếu có thể ở cùng nhau 3 năm thì quả là hiếm thấy. Phải trải qua 5 năm thử thách thì tình bạn mới xứng là tri kỷ. Nếu tình bạn ấy kéo dài suốt 10 năm vẫn không phai nhạt thì quả thật đó là quý nhân trong cuộc đời mỗi người. Còn nếu trải qua 20 năm mưa gió mà tình bạn vẫn sâu đậm nồng nàn, thì đó chính là thân nhân của bạn ở kiếp sống sau này.
Trong thời đại nhiễu nhương, lòng người dễ thay đổi, đừng oán trách hờn dỗi, mà hãy quan tâm hơn tới những người bạn xung quanh ta. Vì con người gặp gỡ là bởi duyên, ấm áp là bởi tình, tan rã là bởi không biết trân quý nhau.
Chỉ cần thấu hiểu hơn một chút, ít so đo tính toán hơn một chút, học cách cảm ơn thêm một chút, và trân trọng những người đã đối xử tốt với bạn hơn một chút, bạn sẽ nhận ra tri kỷ trong cuộc đời.
Bài viết này, xin gửi tới những người bạn đã luôn ở bên tôi trên đường đời…
ST.
Tham lam chính là thứ độc dược hại mình hại người đáng sợ nhất.

Trên đời này, lòng tham chính là thứ độc dược đáng sợ nhất, nó có thể hủy hoại một cá nhân chỉ trong nháy mắt. Bởi vậy, con người nếu muốn tránh tai ương, nhất định phải thông tỏ được chữ “tham” này.


  
Trương tiên sinh và Lãnh Khiêm là đôi bạn thân. Trương tiên sinh dạy học ở một trường tư thục, thu nhập không nhiều, sống cuộc sống khá bần hàn.
Lãnh Khiêm là một phú ông, nhưng đối xử hòa nhã với mọi người, thích bố thí hành thiện. Trương tiên sinh trong lòng có chuyện gì, đều bộc bạch với Lãnh Khiêm.
Một hôm, Lãnh Khiêm đến thăm Trương tiên sinh, nhìn thấy Trương tiên sinh mặt mày ủ dột, bèn ôn tồn hỏi: “Huynh có tâm sự gì vậy? Có thể nói với tôi được không?”.
Trương tiên sinh lúng túng, lắc lắc đầu. Lãnh Khiêm nắm chặt tay của Trương tiên sinh: “Tôi thấy huynh mặt mày buồn bã, nhất định là có tâm sự gì rồi, không cần phải khách sáo, hãy cứ nói ra, biết đâu tôi có thể giúp được”.
Trương tiên sinh có được sự khích lệ của Lãnh Khiêm, liền lấy hết can đảm, nói nhỏ rằng: “Lúc nãy ra phố, nhìn thấy sạp trái cây có bán trái vải, nước miếng của tôi chảy không ngừng, nhưng mà, trong túi của tôi lúc đó lại không có lấy một đồng xu nào, thích ăn lắm nhưng chẳng có cách nào?”.
Lãnh Khiêm nghe thấy lời của Trương tiên sinh, lòng nghĩ ngợi một hồi, nói rằng: “Tôi có thể mời huynh ăn trái vải, huynh hãy đi chuẩn bị cho tôi một cái chậu sạch và một tấm vải”.
Trương tiên sinh đã chuẩn bị xong xuôi, Lãnh Khiêm liền đặt cái chậu lên trên bàn, lấy tấm vải đậy cái chậu lại. Lãnh Khiêm nhắm nghiền mắt lại, trong miệng niệm câu chú, niệm được một hồi, kéo tấm vải ra, quả nhiên trong chậu đã đựng đầy trái vải vừa đỏ vừa lớn.
Lãnh Khiêm nói: “Huynh ăn đi!”.
Trương tiên sinh giống như có được báu vật, liền bóc lấy một trái bỏ vào miệng. “Oa! Thật sự rất thơm ngon!”. Trương tiên sinh ăn luôn miệng hết trái này đến trái khác, trong lòng nghĩ thầm: “Nếu như đã có thể biến ra trái vải, vậy thì nhất định còn có thể biến ra những thứ khác nữa”.
Trương tiên sinh ăn hết trải vải xong, lấy giọng điệu thảm thiết nói với Lãnh Khiêm rằng: “Lãnh Khiêm, huynh đã có thể biến ra được nhiều trái vải ngon miệng như vậy, vậy thì nhất định có thể biến ra ngân lượng được chứ! Bây giờ tôi thật sự khổ đến chịu hết nổi rồi, mong huynh hãy biến chút ngân lượng tặng cho tôi được không!”.
Lãnh Khiêm không nỡ từ chối lời thỉnh cầu của Trương tiên sinh, bèn nói: “Được thôi! Được thôi!”
Lãnh Khiêm nói tiếp rằng: “Đời trước, huynh cũng từng là một đại phú ông, nhưng bởi quá tham lam, đã dùng hết rất nhiều thứ, rất nhiều cơ hội mà ông trời ban cho, vậy nên đời này mới chuyển sinh thành người nghèo khổ, nhưng mà, nếu như huynh có thể không khởi tâm tham lam nữa, tôi có thể giúp đỡ giúp đỡ huynh một chút”.
Trương tiên sinh chỉ tay lên trời thề rằng: “Tôi nhất định sẽ không làm kẻ tham lam nữa”.
Lãnh Khiêm nhắc nhở Trương tiên sinh rằng: “Tuyệt đối không được có niệm đầu tham lam. Nếu như huynh có niệm đầu tham lam, nhất định sẽ gặp phải báo ứng càng nghèo khổ hơn, thậm chí còn có thể liên lụy đến tôi nữa”.
Trương tiên sinh năm lần bảy lượt bày tỏ với Lãnh Khiêm rằng: “Tôi nhất định sẽ không có niệm đầu tham lam”.
“Được rồi, vậy tôi sẽ giúp huynh”.
Lãnh Khiêm cầm bút, vẽ một cánh cửa lên trên bức tường, rồi nói với Trương tiên sinh rằng:“Mở cánh cửa này ra, sẽ nhìn thấy rất nhiều ngân lượng. Những lúc huynh cần tiền tiêu xài, hãy lấy phần mà huynh cần dùng đến, tuyệt đối không được lấy quá nhiều. Nếu như làm đúng theo như lời tôi dặn, đời này kiếp này huynh sẽ không phải lâm cảnh túng thiếu. Còn nếu như huynh không nghe lời của tôi, lấy quá nhiều vàng bạc, nhất định sẽ rước lấy phiền phức”.
Lãnh Khiêm căn dặn thêm mấy lần nữa, Trương tiên sinh đều hứa rằng bản thân sẽ không khởi tâm tham lam, Lãnh Khiêm mới yên tâm trở về.
Lãnh Khiêm vừa mới đi khỏi, Trương tiên sinh hiếu kỳ đẩy cánh cửa ra, quả nhiên đập vào mắt Trương tiên sinh là vô số vàng thỏi, chói lòa cả mắt.
  
“A! Sao lại có nhiều vàng đến như vậy nhỉ! Mình phải lấy thêm một chút mới được!”.
Trương tiên sinh liền quên mất lời dặn của Lãnh Khiêm, nhét đầy số vàng vào trong túi quần túi áo, vô số vàng bạc khiến cho Trương tiên sinh nhìn mụ mẫm cả đầu óc. Vàng thỏi càng nặng ông càng cầm càng thấy thích thú.
Túi quần nhét đầy rồi, liền cởi áo ra bọc lấy số vàng, ngay lúc đang muốn rời khỏi, trong cửa có người la lên: “Có trộm! Có trộm!”.
Trương tiên sinh hoảng hốt bỏ số vàng lại, ba chân bốn cẳng bỏ chạy, nhưng đã quá muộn, quan sai đã đuổi theo kịp, bắt lấy Trương tiên sinh.
Quan huyện quát mắng Trương tiên sinh: “Quan khố canh phòng nghiêm ngặt, nhà ngươi làm sao có thể  lén vào được”.
Trương tiên sinh vừa nghe nói là ngân khố của quốc gia, sợ đến mất cả hồn vía, thế là liền thành thật nói ra tiên thuật của Lãnh Khiêm. Quan huyện liền hạ lệnh cho sai nha bắt Lãnh Khiêm đến.
Lãnh Khiêm nhìn thấy có sai nha đến nhà, đoán chắc rằng Trương tiên sinh đã gây họa, liên lụy bản thân mình, ông phục tùng đi theo sai nha về nha môn.
Đến ngoài cửa nha môn, Lãnh Khiêm nói với sai nha rằng: “Có thể cho tôi xin một ly nước không?”.
Sai nha rất kính trọng Lãnh Khiêm, nói: “Để tiểu nhân đi lấy trà”.
Sai nha bưng đến một ấm nước và cái ly, rót cho Lãnh Khiêm một ly trà.
Lãnh Khiêm đưa tay đón lấy ly trà, cảm ơn nha dịch, uống lấy một ngụm, rồi “bụp” một tiếng, Lãnh Khiêm không thấy đâu nữa.
Sai nha ngơ ngác nhìn đông ngó tây, tìm kiếm khắp nơi cũng tìm không thấy Lãnh Khiêm, hoảng hốt kêu lên rằng: “Lãnh tiên sinh, ông ở đâu vậy!”.
Có âm thanh từ trong ấm trà vọng ra: “Tôi ở trong ấm trà này, xin hãy mang ấm trà này đi gặp quan huyện!”.
Nha dịch không biết làm sao bất đắc dĩ cầm ấm trà đến trước mặt tâu rõ với với quan huyện.
Quan huyện đặt ấm trà trên bàn, nghiêm túc kêu lên: “Lãnh Khiêm, ông hãy mau ra đây đi!”.
Lãnh Khiêm trả lời rằng: “Tôi đã phạm tội, không còn mặt mũi nào để gặp quan huyện”.
Quan huyện tức giận, quăng ngay ấm trà xuống sàn, “xoảng” một tiếng, ấm trà vỡ nát. Điều kỳ lạ là mỗi một mảnh vụn lại một Lãnh Khiêm, quan huyện càng tức giận hơn, nói: “Người đâu! Hãy đem những mảnh vụn này bỏ vào trong cối xay nghiền nát chúng thành bột cho ta”.
Khi những mảnh vỡ nghiền thành bột vụn, bỗng dưng số bột đó bay lên không trung, trên bầu trời xuất hiện một con hạc trắng, người đang cưỡi trên lưng con hạc lại chính là Lãnh Khiêm.
Lãnh Khiêm nói: “Ài! Lòng tham, quả thật là thứ quá đáng sợ!”. Lãnh Khiêm nói xong, bay thẳng lên trên trời, không ai nhìn thấy ông đâu nữa.
Trương tiên sinh bởi ăn trộm quốc khố, bị đưa ra xét xử, hối hận cũng đã muộn rồi!.
Theo Tinhhoa
Điều trân quý nhất của con người chính là “lương thiện”.

Ở đời, giúp người chính là giúp mình, trao cho người khác một cơ hội chính là lưu lại cho mình một lối đi, hành thiện ắt sẽ đắc phúc báo, đừng ngần ngại trở thành một người tốt trên đời.


Sống lương thiện là kỹ năng sống quan trọng bậc nhất  
Tại thị trấn nhỏ có bốn cha con sống dựa vào nhau, mẹ mất sớm nên cha già chịu cảnh gà trống nuôi con. Ba đứa con trai lớn lên chứng khiến cha lủi thủi ra đồng trồng trọt để có thứ mà nuôi con mình.
Gia đình họ sống đạm bạc, của ăn của để nào có gì. Thế nhưng ba người con từ bé đã không thích cách cha mình đối xử với hàng xóm trong trấn. Mỗi khi gặt xong, ông đều mang bao lúa mỳ tới cho những hộ mất mùa, hay giúp đỡ ai đó lúc họ cần. Mỗi lúc có con gà ngon, kiểu gì ông cũng lại lấy đi cái cánh hay phần lườn cho nhà nào đó.
Điều này khiến cho những người con cảm thấy rất khó chịu. Nhiều lần các con đã họp nhau lại và rồi thưa chuyện với cha mình: “Cha cứ đem cho như thế, nhà mình thì chả có mấy của nả, làm sao chúng ta giàu được? Cha không nghĩ cho con mình trước tiên à?”.
Người cha khi ấy chỉ mỉm cười xoa đầu các con và nói: “Yên tâm, ta đã có của để dành rất nhiều cho các con”.
Mấy người con nghe vậy rất tò mò, để ý xem cha có gì cho mình. Nhưng mãi mà chưa thể tìm được gia tài mà cha dành dụm cho họ. Vì thế họ ngày càng tỏ ra bất mãn với cha, thể hiện rõ thái độ, khiến ông buồn lòng. Nhưng người cha vẫn cứ như vậy, nên cả ba đứa con trai sau khi đã trưởng thành đều lần lượt rời bỏ cha mình mà tự kiếm ăn bên ngoài.
  
Một ngày nọ, họ nhận được tin báo cha mình đang hấp hối, cũng đúng vào lúc nạn đói hoành hành, chẳng thể kiếm nổi mấy bữa qua ngày, nên ba chàng trai không hẹn mà đều cùng về nhà để nhìn mặt cha lần cuối.
Ngồi bên đầu giường, ba anh em thấy ánh mắt rạng rỡ của ông khi được gặp 3 đứa con yêu quý trước lúc về nơi chín suối. Anh cả khi ấy chỉ nghĩ đến gia tài cha để lại, bèn buột miệng hỏi: “Trước khi cha mất, cha hãy chia đều tài sản để lại cho chúng con, cha nhé!”. Anh hai nghe xong cũng vội vàng hưởng ứng, em út gật đầu tỏ ý đồng tình.
Người cha không nói gì, chỉ lắc đầu nhìn ba đứa con trai mà ông rất mực yêu quý và lâu lắm rồi mới được gặp lại chúng. Ông nói nhỏ: “Gia tài này không phải chia, các con sẽ được hưởng như nhau thôi. Hãy cố gắng yêu thương nhau nhé, và quan tâm đến người xung quanh, các con sẽ có thêm nhiều của cải hơn nữa. Của để dành ta cho các con, tiêu cả đời này còn không hết, các con cứ yên tâm”.
image.png
Nói xong ông trút hơi thở cuối cùng rồi ra đi. Ba người con trai nghe xong vẫn không hiểu rốt cục cha để lại gì cho mình, họ chia nhau tìm kiếm khắp nhà, nhưng căn nhà trống không ngoài mấy bộ quần áo cũ của ông và chút lương thực còn lại. Họ thấy rất khó chịu, bảo nhau không biết lấy gì mà lo mai táng cho cha đây, chưa nói đến chuyện chẳng có gì để lại cho con!
Ngay sau khi biết tin ông lão qua đời, hàng xóm láng giềng đã kéo tới thăm hỏi và tỏ ý muốn giúp 3 anh em tổ chức tang lễ cho ông. Không ai bảo ai, họ đều quyên tiền để làm cái tang tử tế cho ông lão, điều hiếm thấy trong cảnh mùa màng thất bát như bấy giờ.
Ba người con trai chưa hết ngạc nhiên vì cái tang lễ rất đàng hoàng của cha mình, thì họ lại nhận được lời mời làm việc cho một số thương gia trong trấn. Nhà cửa của họ cũng được bác thợ mộc ngỏ ý sẽ giúp sửa sang. Tất cả đều như một giấc mơ khó tin! Đến khi hỏi ra họ mới biết, toàn bộ những người đang nhiệt tình giúp đỡ đều ít nhiều hàm ơn của người cha già vừa khuất núi.
“Lúc còn sống ông ấy dù chẳng dư dả gì vẫn góp chút đồ hay tiền bạc giúp đỡ chúng tôi, đến khi ốm đau chúng tôi sang chăm ông ấy còn từ chối, chỉ dặn lại là hãy dành moi thứ đó cho ba đứa con trai của ông ấy. Bởi vậy mà những gì chúng tôi định mang biếu ông cụ, bây giờ chúng tôi sẽ đưa cho các anh, giúp được gì, chúng tôi sẽ giúp hết mình”, một dân làng vui vẻ nói với ba anh em.
Đến lúc ấy, ba người mới hiểu được rằng, gia tài mà cha già để lại cho họ thật lớn, không chỉ giúp họ có cuộc sống ấm no đầy tình yêu thương nơi quê nhà, mà còn tích đức để họ hưởng phúc sau này.
ST.

5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch

Các chuyên gia cho rằng, một ngôi nhà gọn gàng vẫn hơn là nhà sạch mà luộm thuộm.
1. Có một sự khác biệt giữa sự gọn gàng và sạch sẽ
Nhà của bạn có thể lau không còn hạt bụi nhưng nhìn vẫn không sạch nếu trên sàn vương vãi đồ chơi trẻ em, quần áo, giấy tờ.
Điều cực kỳ quan trọng là giữ cho ngôi nhà gọn gàng. Chỉ cần nghĩ một căn nhà ngăn nắp thì dù có bụi vẫn tốt hơn nhà sạch bong mà bừa bộn.
5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch
2. Không lưu trữ những thứ thừa thãi
Rất ít người có thể làm cho nơi ở của họ ổn một khi có quá nhiều thứ không cần thiết. 
Đừng mang tờ rơi về nhà. Tránh mua đến chiếc lược thứ 3, chiếc cốc thứ 10, nếu bạn đã đủ dùng. Đừng mua nhiều hộp đựng thực phẩm khi không biết chính xác bạn sẽ cất gì trong đó. Trước khi mua chiếc đèn mới cần biết phải làm gì với đèn cũ.
Và để thực sự hiểu bạn đang cần một món đồ nào đó, hãy tự hỏi xem nó có làm bạn hạnh phúc không? Cho mình thời gian để cân nhắc. Nếu không còn thích nữa, hãy bỏ ngay lập tức.
5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch - 1
3. Tủ chứa đồ
Đôi lúc khách ghé thăm vào thời điểm chúng ta không mong đợi nhất. Thay vì vội vã làm sạch nơi ở, hãy cất tất cả đồ vào một chiếc tủ "ma thuật".
Nếu sử dụng mẹo này, bạn sẽ tránh được việc suốt ngày hỏi món đồ mình đang cần ở đâu.
5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch - 2
5. Cầm theo một món đồ trước khi rời khỏi nhà
Tập thói quen này: Khi bạn rời khỏi phòng, hãy mang theo một thứ không thuộc về bạn, có thể là cốc bẩn, sách hoặc quần áo cần giặt.
5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch - 3
Bằng cách này, căn hộ sẽ đẹp hơn nhiều và thậm chí bạn sẽ không nhận ra điều đó.
5. Xem làm sạch nhà như một cách để thư giãn
5 bí mật đơn giản của ngôi nhà sạch - 4
Dọn nhà là một thói quen tốt mỗi khi bạn cần suy nghĩ hoặc bình tĩnh lại. Khi dọn dẹp, về cơ bản bạn đang phân loại những suy nghĩ trong đầu sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hãy biến việc dọn dẹp thành thư giãn sẽ tốt cho cả ngôi nhà và đầu óc của bạn.
Bảo Nhiên (Theo Brightside)

5 câu nói ẩn chứa đạo lý kinh điển trong Tây Du Ký


5 câu nói ẩn chứa đạo lý kinh điển trong Tây Du Ký
Tây Du Ký là một trong tứ đại danh tác nổi tiếng của Trung Hoa được sáng tác vào thời nhà Minh thế kỷ thứ 16. Đây được mệnh danh là cuốn tiểu thuyết lãng mạn dài tập về Thần Phật và ma quỷ. Lại có người nhìn nhận, đây là một cuốn sách thuộc về tu luyện ghi chép lại hành trình gian khổ tới Tây phương bái Phật thỉnh kinh của bốn thầy trò Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã.
Bề mặt là câu chuyện trừ yêu diệt quái, nhưng thật ra nội hàm chân chính của Tây Du Ký là con đường hàng phục ma tính của một người tu hành. Thông qua câu chuyện thần thoại sang Tây Thiên thỉnh kinh, tác giả đã dẫn dắt chúng ta cách khắc phục nội tâm trên con đường nhân sinh, hàng phục tâm ma, cuối cùng lấy được Chân Kinh, thành tựu đời người. 
Có lẽ những người yêu mến tác phẩm sẽ thấy vô cùng bội phục ngưỡng mộ kỹ năng sáng tạo tưởng tượng của tác giả. Ông đã miêu tả nhiều cảnh tượng và tình huống không thể nhìn thấy trong thế giới hiện hữu của loài người. Đây có lẽ không chỉ là khả năng tưởng tượng phi thường của tác giả, mà có lẽ đó là sứ mệnh của ông. Ông được tới thế gian này sử dụng ngòi bút để truyền đạt những đạo lý làm người cần có đó là: biết phân biệt thị phi thiện ác, yêu ma vĩnh viễn không bao giờ cao hơn chính đạo, biết giữ cái tâm bất biến không lay động như thủa ban đầu thì thỉnh kinh tất thành. 
Trong tác phẩm thực sự ẩn chứa nhiều đạo lý kinh điển với nội hàm vô cùng sâu sắc, những câu chuyện sống động không bị lặp lại cuốn hút với nhiều tình tiết gay gắt. Vậy cụ thể đó là những đạo lý kinh điển nào? 
“Thế thượng vô nan sự, chỉ phạ hữu tâm nhân”  
Câu tục ngữ trên có nghĩa là: Trên thế gian không có việc gì khó, chỉ sợ người không có lòng quyết tâm. Trước hết có thể nói đây là câu nói bao hàm nhiều ý nghĩa mà có lẽ những người đã từng trải qua năm tháng bể dâu gặp phải chuyện không ưng ý trong cuộc đời đều đã từng nghe qua. Thế gian nhiều khi mười chuyện có tới tám chín chuyện là không đươc như ý.
Câu nói này xuất hiện ở hồi thứ hai trong Tây Du Ký, “Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật, Tài cao về xứ giết yêu ma”. Trong đoạn đối thoại khi Bồ Đề Sư tổ dạy phép cân đẩu vân, Thạch Hầu nói phép này khó lắm, khó lắm. Tổ Sư đã nói: Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ không có lòng quyết tâm. Nguyên gốc: “Thế thượng vô nan sự, chỉ phạ hữu tâm nhân”.  
Ảnh: Zonglanxinwen.
Trên thế gian này quả thực có nhiều sự việc khó, nhưng là khó ở chỗ rốt cuộc có thể kiên định tới cùng không, nếu bỏ cuộc giữa chừng thì thực sự lại rất dễ dàng. Có những việc chỉ có thể dựa vào lòng kiên định và quyết tâm, từng bước từng bước vượt qua mọi khó khăn gian nan để tiến tới chặng cuối cùng. Đối với những người tu luyện, chính niệm và sự kiên định chính là then chốt giúp ta có thể vượt qua mọi gian nan, tiến tới viên mãn.
Trong cuộc đời cũng vậy, đôi khi có những việc chỉ nên học cách chấp nhận mà không thể cưỡng cầu. Có những sự việc dù bạn đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không được như ý. Nhưng đổi lại, bản thân lại đúc kết được những kinh nghiệm trong cuộc sống, hiểu được ý nghĩa nhân sinh, những điều có thể khắc cốt ghi tâm. Hãy cố gắng hết sức để không phải hối tiếc, còn kết quả đã được sắp đặt, an bài. 
Nhân một thương hổ tâm, hổ một thương nhân nghĩa
Nghĩa là: Người chẳng dốc lòng giết cọp, cọp sao nỡ tâm ăn thịt người. Đây là câu nói trong hồi thứ 16 của Tây Du Ký “Chùa Quan Âm, thầy tu tham báu vật. Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa”. 
“Tam Tạng thất kinh hồn vía, hỏi Tôn Ngộ Không:
– Ðêm nay thầy ngủ ngon, không hay lửa cháy.
Tam Tạng hỏi:
– Sao chỉ nơi ta ngủ còn nguyên vẹn, nói thử ta nghe.
Tôn Hành Giả nói:
– Có con giữ cái buồng cho thầy, nên lửa không cháy tới.
Tam Tạng nói:
Con có thần thông như vậy, sao không bảo hộ cả chùa?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể con kể lại cho sư phụ nghe. Lời sư phụ nói quả đúng lắm. Sư cụ trụ trì quyết phóng hỏa đốt cho thầy trò ta chết, mà lấy áo cà sa. Nếu con không biết thì thầy trò ta đã bị thiêu chết rồi. Con thấy họ có tâm ác, nên không thèm chữa lửa, lại cho thêm một trận gió.
Tam Tạng hỏi:
– Lửa cháy thì dùng nước, sao lại cho thêm gió làm gì?
Tôn Hành Giả nói:
Cổ nhân dạy rằng: Người chẳng dốc lòng giết cọp, cọp đâu nỡ dạ ăn thịt người. Nếu họ không phóng hỏa đốt chùa, thì con không tự nhiên làm gió.
Tam Tạng hỏi:
– Nếu vậy, áo cà sa đã cháy rồi sao?
Tôn Hành Giả nói:
– Không hề gì, áo cà sa có Tịch hỏa châu, để trong liêu không cháy, để con vô đó mà lấy, không mất đi đâu?”
Ảnh: Sohu.

Thông thường, khi thấy người gặp nạn, chúng ta sẽ sinh lòng thương cảm. Đó là tâm lý thường tình ai ai cũng dễ dàng làm được. Nhưng nếu thấy người khác tốt hơn mình, những suy nghĩ chân thực trong lòng sẽ ra sao? Thực ra chỉ có bản thân mình mới thấu tỏ. 
Trong “Đình huấn cách ngôn”, vua Khang Hy có câu nói như thế này: “Phàm là người giữ mình trên đời, duy chỉ nên giữ khoan thứ trong tâm. Thấy người có chuyện đắc ý thì nên sinh lòng hoan hỷ. Thấy người có chuyện thất ý thì nên sinh lòng thương cảm. Những điều này đều là những điều thực sự có lợi ích cho bản thân. Nếu đố kỵ với thành công của người, vui mừng với thất bại của người, sao có thể mưu sự với người được? Tự làm hỏng cái tâm của mình một cách oan uổng rồi”. Cổ ngữ cũng có câu: “Thấy người ta được, giống như mình được. Thấy người ta mất, giống như mình mất. Có cái tâm như thế, Trời ắt sẽ phù hộ”.
Một ngày làm thầy, cả đời là cha 
Câu này xuất hiện ở hồi thứ 31, 72 của Tây Du Ký. Trong hồi 31, “Trư Bát Giới nói khích Hầu vương, Tôn Hành Giả mưu trừ yêu quái” kể rằng: 
“… Bát Giới túng phải thuật lại mọi chuyện. Rồi nói rằng: Chính là Bạch Long Mã giục tôi đi tìm sư huynh. Nó nói: anh là người quân tử biết nhân nghĩa, không để ý đến chuyện cũ, chắc chắn sẽ cứu được sư phụ. Vậy xin sư huynh niệm tình ‘một ngày làm thầy, cả đời là cha’ đi cứu cho toàn tính mạng”. 
“Hoàng Bào lão quái nói: Ngươi đúng là mặt dày mày dạn, không chí khí trượng phu. Bị sư phụ đuổi đi rồi, còn dám quay lại. Tôn Hành Giả đáp rằng: Nhà  ngươi đúng là đồ yêu quái, nên không thông lễ nghĩa. Một ngày làm thầy, cả đời làm cha. Nay ngươi bắt thầy ta, lẽ nào ta có thể làm ngơ mà không cứu. Mi đã bắt sư phụ và sư đệ ta, sao còn dám chửi mắng sau lưng ta?”
Trong hồi 72, khi Đường Tăng vào nhầm động Bàn Tơ và bị bảy yêu tinh nhện bắt, có đoạn: 
“… Tôn Ngộ Không cười mà nói: ‘Các đệ nghe sư phụ nói kìa. Thầy muốn ăn cơm để chúng con đi hóa duyên xin ăn. Tục ngữ có câu: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha” sao lại có đạo lý, đồ đệ ngồi chơi để thầy đi xin cơm?”.
Ảnh: Quyensach.blogspot.

Trong văn hóa truyền thống phương Đông, tôn sư trọng đạo là một nét đẹp vô cùng quý báu. Người ta ví ân sư như phụ mẫu, bởi vậy, tôn kính cha mẹ bao nhiêu thì cũng tôn kính thầy bấy nhiêu. Cổ nhân thường nói: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha”. Người học trò coi ân đức của người thầy tựa như cha của mình, vì vậy mới gọi ông là “ân sư” hay “sư phụ”. Trong khi theo học người thầy, người đệ tử không phải chỉ hiểu được các đạo lý cung kính phụng sự người thầy, mà còn phải nghiêm ngặt thực hiện những gì mà người thầy dạy bảo.
Không ngẫu nhiên mà thời phong kiến người ta lại sắp xếp theo thứ tự: “Quân – Sư – Phụ”. “Sư” (người thầy) chỉ đứng sau vua (quân vương), còn đứng trên cả phụ (phụ mẫu – cha mẹ). Người thầy truyền thụ luân lí đạo đức, tri thức và các giá trị tốt đẹp cho học trò của mình. Bởi vậy, tôn kính sư phụ được xem là vấn đề vô cùng quan trọng.  
Hữu phong phương khởi lãng, vô triều thủy tự bình
Câu này được dùng như một phép ẩn dụ để so sánh: Mỗi điều xảy đến trong đường đời chúng ta đều có nguyên nhân. Theo Phật giáo giảng, đó đều là nhân quả, không phải vô duyên vô cớ. Câu nói này xuất hiện trong hồi 75 của Tây Du Ký: “Ngộ Không khoan bình quý, Chúa động nhốt Ðại Thánh”. 
“Ngộ không nói: “Hữu phong phương khởi lãng, vô triều thủy tự bình. Ngươi không chọc giận ta, ta không có cớ gì tìm đến các ngươi. Chỉ vì chúng bay kết bè kết đảng, tìm cách ăn thịt sư phụ ta nên ta mới tới đây tính nợ”.
Bát tiên đồng quá hải, độc tự hiển thần thông
Câu nói này xuất hiện trong hồi thứ 81 của Tây Du Ký,” Chùa Trấn Hải Ngộ Không diệt quỷ, rừng Hắc Tùng ba đệ tìm thầy”. Đây là cách so sánh ẩn dụ nói mỗi người cần dựa vào năng lực của chính mình, để chứng thực đạt tới mục tiêu mình muốn. 
“Tôn Hành Giả nói: Ðể ta kể sơ qua cho các ngươi nghe. Ta từng hàng yêu diệt quái, lên trời đại náo thiên cung… Đây đúng là Bát tiên đồng quá hải, độc tự hiển thần thông. Các thiên binh thiên tướng trên trời cũng nể sợ đôi phần. Để ta đi bắt yêu tinh về đây các vị chắc mới tin lời lão Tôn”.
Đây là câu tục ngữ kinh điển trong dân gian. “Bát tiên quá hải, các hiển thần thông” (tám vị tiên vượt biển, triển hiện thần thông). “Bát tiên”, đó là: Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hòa, và Hà Tiên Cô. Mỗi vị tiên nhân đều có một đặc điểm khác nhau. Tào Quốc Cữu là thân thích của một vị hoàng đế thời nhà Tống. Lý Thiết Quải có dáng vẻ giống như người ăn mày với một bên chân tật nguyền nên phải chống gậy sắt. Hà Tiên Cô là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp. Trương Quả Lão là một cụ già tóc bạc, gương mặt hồng hào, râu tóc phất phơ, thường cưỡi ngược trên lưng một con lừa. Hàn Tương Tử là cháu trai của Hàn Dũ, một nhà văn triều Đường, đặc biệt yêu thích thổi sáo. Hán Chung Ly lúc nào cũng phe phẩy một cây quạt ba tiêu, v.v. Họ đều là tiên nhân của Đạo gia, và thường tụ họp cùng nhau. 
Trở lại với yến hội bàn đào, sau khi ăn uống no say, tám vị tiên nhân bái lạy Vương mẫu và cùng nhau quay về. Sau khi các vị tiên lên thuyền, Lã Động Tân đột nhiên nảy ra ý tưởng kỳ lạ, đề nghị mọi người không ngồi thuyền mà mỗi người hãy tự nghĩ cách để qua bờ bên kia.
Đầu tiên, Hán Chung Ly ném cây quạt ba tiêu xuống nước, rồi nằm ngửa trên đó để mặt quạt trôi đi. Lý Thiết Quải tháo bầu hồ lô đeo bên mình rồi thổi hơi vào, chiếc hồ lô biến thành lớn nổi trên mặt nước giống như một con thuyền, ông ngồi trên hồ lô tươi cười lướt sóng. Hà Tiên Cô cũng ném lá sen xanh xuống nước, trong phút chốc lá sen hoá lớn, Hà Tiên Cô nhẹ nhàng nhảy lên lướt sóng đuổi theo Lý Thiết Quải. Lam Thái Hoà ném chiếc giỏ trống, đáy giỏ vừa chạm mặt nước, trong giỏ liền có hoa tươi nở rực rỡ, Lam Thái Hoà tay cầm phách ngọc rẽ sóng mà đi. Hàn Tương Tử ném ống sáo rồi nhảy lên, ống sáo trôi như một chiếc tàu, Hàn Tương Tử miệng thổi sáo, chân đạp sáo sang bờ bên kia. Lã Động Tân ném cây bảo kiếm, trong vòng một trượng, sóng biển lặng yên. Tào Quốc Cữu tháo chiếc dây lưng ném xuống, Tào Quốc Cữu đứng trên dây giống như đứng trên lưng con rồng đang lắc đầu quẫy đuôi, rẽ sóng mà tiến. Trương Quả Lão cầm ngư cổ, từ tốn từ trong tay áo lấy ra một con lừa giấy, làm phép biến thành lừa thật rồi cưỡi ngược mà đi. Đây chính là câu chuyện “Bát tiên quá hải, các hiển thần thông” mà người ta vẫn nói.
Kiên Định
Xin cảm ơn cuộc đời.

Bố tôi từng là một tài xế lái xe đường dài, từng là một người xởi lởi và tự tin. Nhưng năm tháng trôi qua, lần đầu tiên không nhìn thấy rõ đường đi, ông vẫn nói đùa rằng đường nhiều bụi quá. Và cũng ngày hôm đó, tôi bắt gặp bố đang lặng lẽ đeo thử cặp kính lão.
Bố tôi sẽ nổi cáu khi ai đó bảo rằng ông đã đến tuổi phải nghỉ ngơi! Không lâu sau, bố bị đau tim, phải trải qua việc mổ xẻ. Khi qua khỏi, ông yếu hẳn đi và không thể đi làm được nữa!  
Bố tôi vẫn sống-nhưng có một thứ, bên trong sâu con người ông thì không-Niềm vui sống!. 
Bố cũng không chịu làm theo hướng dẫn của bác sĩ. Và không muốn gặp mọi người. Bạn bè đến thăm rồi cũng thưa dần...,bố còn lại một mình!   
Càng ngày ông càng bẳn tính, bố chỉ trích mọi việc tôi định làm hay đã làm. Hằng ngày, tôi đều mong ước, có một ai đó để bầu bạn được với bố. Nhưng ước mong của tôi chưa biết đến khi nào, được trở nên hiện thực!..   
Một người bạn chỉ cho tôi, nên thử tìm một vật nuôi để bố khuây khỏa, và đã dẫn tôi tới một tổ chức chăm sóc vật nuôi vô chủ. Sau khi điền vào một tờ đơn, tôi được người hướng dẫn đưa đi xem những dãy chuồng lớn với rất nhiều chó. Chúng đều mừng rỡ khi thấy có người tới. Nhưng tôi chưa vừa ý con nào, có con nhỏ quá, con to quá, hay con thì lông dài quá...
    
Khi tôi đến gần chuồng nhốt cuối cùng, tôi thấy một con chó từ góc xa của chuồng, đang nặng nhọc bước về phía tôi và lặng lẽ ngồi xuống. Nó rất gầy, nhưng đôi mắt của nó rất lạ: Bình thản và trong veo!!   
Khi tôi hỏi thăm về nó, người hướng dẫn diễn tả:
- Nó buồn cười lắm! không hiểu nó từ đâu tới, cứ ngồi thơ thẩn trước cổng. Chúng tôi đành mang nó vào và chờ đợi có ai đến tìm, nhưng hoài mãi mà không thấy ai, ngày mai là nó hết hạn...    
- Hết hạn?... là anh định giết nó hay sao? - tôi hốt hoảng!    
- Cô ơi, đó là quy định. Chúng tôi không thể nuôi dưỡng hết số chó vô chủ đến khi chúng già được!.
....
 Tôi gọi ầm lên khi vừa vào đến cửa:
- Bố! bố ơi, xem con đem gì về này!   
- Nếu tao cần một con chó, tao sẽ tự kiếm, và tao đã kiếm được một con chó tốt hơn là con chó gầy trơ xương này! 
Ông phẩy tay: Mày giữ lấy nó, tao không cần!   
Tôi tức nghẹn, vả lại bố cứ nhìn tôi bằng ánh mắt thách thức. Đúng khoảnh khắc ấy, con chó lặng lẽ đi lại phía bố, và ngồi xuống ngay cạnh ông. Một cách chậm chạp, nó giơ một chân trước lên.  
Bố tôi, lúc này ông lúng túng thật sự..Rồi ông cúi xuống, nắm lấy chân trước của chú chó như bắt tay, và rồi ông ôm con chó gầy vào lòng...   
Đó là mở đầu của một tình bạn thân thiết. Bố đặt tên cho nó là Cheye. Họ cùng đi dạo mỗi buổi chiều. Họ ngồi trên bờ sông hàng giờ liền cùng nhau. Không nơi nào mà bố không cho Cheye đi cùng. Bố và Cheye không rời nhau trong suốt ba năm sau đó. Bố không còn khó tính như trước, ông và Cheye gặp gỡ nhiều người, cả hai cùng có thêm nhiều bạn mới. Nụ cười đã trở lại trên môi và trong ánh mắt của bố. Cùng với đó là niềm vui sống...
  
Rồi một đêm khi đang ngủ, tôi cảm thấy cái mũi ươn ướt của Cheye cọ vào chân. Chưa bao giờ nó làm phiền giấc ngủ của mình, tôi bật dậy, vội vã chạy sang phòng bố. Bố vẫn nằm trên giường, thanh thản. Ông ra đi lặng lẽ, nhẹ nhàng như vậy!  
Năm ngày sau, tôi lại khóc một lần nữa, khi trông thấy Cheye nằm chết bên cái giường bỏ không của bố.   
Tôi chôn nó ở gần bờ sông, nơi mà bố tôi và nó hay ngồi câu cá. Đám tang của bố được tổ chức ở nhà thờ, rất nhiều người bạn của ông và Cheye đến dự, họ nhớ bố tôi và cả Cheye nữa, chú chó bất ngờ xuất hiện trong đời của bố, sự bình thản của nó khi đối diện với cuộc sống, dù khó khăn hay bất hạnh thể nào..., và giữ lại cho những năm tháng cuối đời của bố tôi là niềm vui và sự thanh thản.
   
Và tôi nhận ra được, cuối cùng thì mong ước của tôi cũng đã trở thành hiện thực. Xin cảm ơn cuộc đời!
ST.