Nhãn

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

TÔI CÓ QUYỀN
Richard Teo Keng Siang, sinh năm 1972, là một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, rất ham sống, ham làm việc và … ham làm giàu. Năm 40 tuổi, anh đã thành một nhà triệu phú. Cho đến một ngày trời thật đẹp, nhưng với anh thì nó xám xịt, anh khám phá ra mình bị ung thư phổi đã đến thời kỳ thứ tư. Chính biến cố cuộc đời này đã giúp anh nhận ra chân lý cuộc sống: Tôi đang tìm kiếm điều gì? Cuộc đời tôi sẽ đi về đâu? Điều gì đang chờ đợi tôi?
Sau đây là bài nói chuyện với các sinh viên Nha Khoa diễn ra ngày 19/01/2012, tám tháng sau khi anh biết mình bị ung thư (một số đoạn bị cắt).
Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ.
Không những chỉ cần học ở trường giỏi, tôi cần phải thành công trong mọi lĩnh vực, từ các hoạt động tập thể đến chạy đua, mọi điều. Tôi cần phải đoạt được cúp, phải thành công, phải được giải, giải quốc gia, mọi thứ. Tôi rất ganh đua. Tôi vào trường y và trở thành bác sĩ. Chắc một số em biết rằng trong ngành y, giải phẫu mắt là một trong những chuyên khoa khó vào nhất. Tôi cũng vào được và được học bổng nghiên cứu của NUS (National University of Singapore – ĐH Quốc gia Singapore) phát triển tia laser để chữa bệnh mắt.
Trong khi nghiên cứu, tôi có hai bằng phát minh, một về dụng cụ y khoa và một về tia lasers. Nhưng các em có biết không, tất cả các thành tựu này không mang lại cho tôi sự giàu có. Sau khi hoàn tất việc học, tôi quyết định rằng theo đuổi ngành phẫu thuật mắt mất quá nhiều thời gian trong khi ra ngoài làm tư kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu các em để ý, vài năm qua, ngành thẩm mỹ đang lên, kiếm được khối tiền. Vì vậy, tôi quyết định bỏ ngành giải phẫu mắt giữa chừng và nhảy qua mở trung tâm giải phẫu thẩm mỹ trong tỉnh.
Các em có biết không, cuộc sống rất mâu thuẫn, một người có thể không vui vẻ khi trả 20 đôla Mỹ cho một bác sĩ tổng quát, nhưng cũng chính người đó không ngần ngại trả 10 nghìn đôla Mỹ để hút mỡ bụng, 15 nghìn đôla Mỹ cho sửa ngực … Không cần phải suy nghĩ nhiều, phải không? Tại sao lại không muốn thành bác sĩ tổng quát nhưng là bác sĩ thẩm mỹ? Do vậy, thay vì chữa bệnh, tôi quyết định trở thành người sửa sắc đẹp.
Công việc làm ăn rất khấm khá. Bệnh nhân mới đầu chờ đợi một tuần, rồi ba tuần, sau lên một tháng, hai tháng, đến ba tháng. Quá nhiều bệnh nhân. Tôi choáng váng. Tôi thuê một bác sĩ, hai bác sĩ, ba bác sĩ, rồi bốn bác sĩ. Chỉ trong vòng năm thứ nhất, chúng tôi đã lên hàng triệu phú. Nhưng chẳng thế nào là đủ vì tôi trở nên mê muội. Tôi bắt đầu khuếch trương tới Nam Dương, thu hút các “tai-tais” (tiếng dùng để chỉ các bà mệnh phụ nhiều tiền không đi làm) những người muốn có cuộc giải phẫu trong chớp mắt. Cuộc sống thật lên hương.
Tôi làm gì với mớ tiền dư thừa? Cuối tuần tôi tiêu khiển ra sao? Thông thường tôi đến tụ tập tại câu lạc bộ đua xe hơi. Tôi sắm riêng cho tôi một chiếc xe đua. Chúng tôi đến Sepang ở Malaysia và đua xe. Cuộc sống của tôi là thế đó.
Tôi làm gì sau khi có chiếc xe? Đến lúc mua nhà, xây cửa. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm đất để xây nhà nghỉ mát. Tôi đã sống cuộc đời như thế nào? Chúng tôi nghĩ rằng phải cần hòa nhập với những người giàu có, nổi tiếng. Chúng tôi bắt đầu giao tiếp với mỹ nhân, người giàu sang và danh tiếng, như hoa hậu thế giới hay người sáng lập mạng Internet, ăn uống ở mọi nhà hàng kể cả nhà hàng nổi tiếng của đầu bếp Michelin.
Tôi đã có được mọi thứ trong cuộc sống, đến tột đỉnh của sự nghiệp và tất cả. Đó là tôi của một năm trước đây. Lúc ở trong câu lạc bộ thể thao, tôi nghĩ tôi đã chế ngự được mọi chuyện và đạt đến đỉnh vinh quang. Nhưng tôi lầm. Tôi không chế ngự được mọi chuyện. Khoảng tháng ba năm ngoái, đột nhiên tôi bắt đầu bị đau lưng. Tôi nghĩ chắc tại tôi thường vận động manh. Tôi đi đến SGH (Singapore General Hospital: Bệnh viện chính của Singapore) và nhờ bạn học làm MRI (phương pháp tối tân soi chụp hình bộ phận trong người để chẩn bệnh) để xem chắc là không bị trật đốt sống hay thứ nào khác. Tối hôm đó, anh ta gọi tôi và cho biết tủy sống thay đổi trong cột sống của tôi. Tôi hỏi như thế nghĩa là sao? Tôi biết nó có nghĩa như thế nào nhưng không thể chấp nhận sự thật.
Ngày hôm sau chúng tôi có nhiều khám nghiệm hơn và họ tìm thấy tôi đang ở giai đoạn thứ tư của ung thư phổi. Ung thư đã lan tới não, cột sống và nội tuyến. Các em biết, có lúc tôi hoàn toàn nghĩ mình đã chế ngự được tất cả, đã đạt đến tột đỉnh của cuộc sống, nhưng kế đó, tôi mất tất cả. Tôi được cho biết, ngay cả với hóa trị, tôi cũng chỉ còn được ba đến bốn tháng tối đa. Cuộc sống tôi bị nghiền nát.
Điều mâu thuẫn là mọi thứ tôi có được – sự thành công, cúp thưởng, xe cộ, nhà cửa, tất cả những thứ mà tôi nghĩ đã mang hạnh phúc đến cho tôi; khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, chúng lại không mang đến cho tôi niềm vui. Tôi chẳng thể ôm chiếc xe hơi đắt tiền mà ngủ. Chúng không mang lại một sự an ủi nào trong những tháng cuối cùng của cuộc đời tôi. Vậy mà tôi đã tưởng những thứ này là hạnh phúc; không phải vậy. Và những thứ tôi sở hữu, đáng lý ra mang lại hạnh phúc, nhưng không, tôi đã chẳng cảm thấy vui khi nghĩ đến.
Khi tôi bằng tuổi các em, tôi ở khu King Edward VII. Tôi có một người bạn khá lạ lùng đối với tôi. Cô ta tên là Jennifer. Chúng tôi vẫn là bạn thân của nhau. Khi chúng tôi thả bộ, nếu cô ta thấy một con ốc sên trên đường, cô ta sẽ nhặt nó lên và đặt lại trong thảm cỏ. Tôi thắc mắc tại sao phải làm như thế? Tại sao phải để bẩn tay? Chỉ là một con ốc sên. Sự thật là cô ấy đã thấy được nguy cơ con ốc có thể bị đạp nát chết. Đối với tôi, nếu không tránh đường thì đáng bị đạp nát, chỉ là luật tự nhiên thôi. Đối ngược nhau quá, phải không?
Tôi được huấn luyện thành bác sĩ để có từ tâm, đồng cảm. Nhưng tôi không có. Sau khi tốt nghiệp y khoa, tôi làm việc ở khoa ung thư tại NYH. Hàng ngày, tôi chứng kiến cái chết trong khoa ung thư. Tôi nhìn thấy tất cả đau đớn mà bệnh nhân phải chịu đựng. Tôi thấy tất cả các thuốc giảm đau và họ cứ vài phút phải bấm vào người. Tôi thấy họ vật lộn với hơi thở cuối, thấy tất cả. Nhưng đây chỉ là một công việc. Tôi đến bệnh xá mỗi ngày lấy máu, cho thuốc nhưng bệnh nhân có “thật” đối với tôi không? Không. Tôi chỉ làm công việc và nóng lòng về nhà để làm việc riêng của mình.
Và thật ra, không có gì sai trái với thành công, giàu có, tuyệt đối không gì sai trái. Điều phiền toái duy nhất là nhiều người chúng ta, như bản thân tôi, không thể kiềm chế được.
Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì càng tích tụ, càng có nhiều, tôi lại muốn nhiều hơn. Càng ham muốn, tôi càng trở nên mê muội. Như tôi đã đề cập trước đây, tôi muốn sở hữu nhiều hơn, đạt tới đỉnh vinh quang như xã hội muốn đào tạo chúng ta. Tôi trở nên mê muội đến nỗi mà chẳng còn việc gì thành vấn đề đối với tôi nữa. Bệnh nhân chỉ là một nguồn lợi tức và tôi vắt cạn từng xu từ họ.
Nhiều khi chúng ta quên đi mình cần phục vụ ai. Chúng ta lầm lạc đến nỗi chẳng phục vụ ai cả ngoài chính mình. Điều đó đã xảy ra với tôi. Dù là ở y hay nha khoa, tôi có thể nói với các em ngay bây giờ rằng, trong khi khám bệnh, đôi khi chúng ta khuyên bệnh nhân chữa trị bệnh không hẳn có, không rõ rệt và ngay cả khi không cần thiết.
Ngay tại thời điểm này, tôi biết ai là bạn tôi, chân thành lo lắng cho tôi và ai chỉ muốn làm tiền tôi bằng cách bán buôn “hy vọng” cho tôi. Chúng ta đánh mất lương tâm vì chúng ta chỉ muốn kiếm tiền.
Về số lượng bệnh nhân, dù ở bệnh viên công hay tư. Tôi có thể kể cho các em nghe, khi tôi làm trong bệnh viện, với tập hồ sơ bệnh lý, tôi chỉ muốn làm cho xong càng nhanh, càng tốt. Tôi chỉ muốn họ ra khỏi phòng khám bệnh của tôi càng nhanh, càng tốt vì có quá nhiều bệnh nhân. Thực tế là vậy. Đây chỉ là một công việc, một công việc thường nhật. Lúc đó, tôi có thật sự biết về cảm xúc của bệnh nhân của tôi như thế nào không? Không. Sự sợ hãi, nỗi lo âu của họ, tôi có thật sự hiểu điều gì họ đang trải qua không? Không, mãi cho đến khi sự cố xảy ra với tôi. Tôi nghĩ rằng đây là một lỗi lầm lớn nhất trong xã hội của chúng ta.
Chúng ta được huấn luyện để trở thành lương y, nhưng chúng ta không cảm được cho bệnh nhân. Tôi không đòi hỏi các em phải xúc động, vì như vậy cũng không chuyên nghiệp, mà chỉ hỏi chúng ta có thật sự cố gắng tìm hiểu nỗi đau đớn của họ không? Phần lớn là không, tôi có thể chắc chắn như vây. Do đó, tôi thử thách các em luôn đặt mình vào cương vị của bệnh nhân.
Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất…
Họ có thật. Chúng ta lựa chọn làm lơ hoặc chúng ta không muốn biết đến sự hiện hữu của họ. Do đó đừng quên, khi các em được thành danh, hãy với tay đến những người cần sự giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm điều có thể mang đến sự khác biệt lớn cho họ. Bây giờ tôi ở vị trí của người tiếp nhận, tôi hiểu rõ, thấy khác khi có người thật sự chăm lo, khuyến khích mình. Nhờ vậy mà tôi vẫn có thể nói chuyện với các em hôm nay.
Trong cuốn sách có tựa đề là “Những ngày thứ ba với Morris”. Có lẽ một số các em đã đọc cuốn này. Mọi người đều biết rằng sẽ có ngày phải chết, chúng ta ai cũng biết như vây. Nhưng sự thật, không ai tin, vì nếu tin chúng ta đã sống một cách khác. Khi tôi phải đối diện với cái chết, tôi lột bỏ mọi thứ, chỉ tập tung vào thứ thiết yếu. Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua trông thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.
Đừng để xã hội bảo ban các em cách sống! Đừng để môi trường bắt các em phải làm gì!
Điều này đã xảy ra cho tôi. Tôi tưởng như vậy là hạnh phúc. Tôi hy vọng các em suy nghĩ lại và sẽ tự quyết định cuộc sống của chính các em. Không phải do người khác bảo ban mà là các em quyết định, sống cho mình hay mang đến sự tốt đẹp cho đời sống của người khác. Hạnh phúc thật sự không có được khi chỉ sống cho mình. Sự thật không như tôi đã tưởng.Tôi xin tóm lược, trong cuộc sống, chúng ta biết sắp xếp thứ tự trước sau càng sớm, càng tốt.
Đừng giống như tôi. Tôi không còn cách nào khác và đã phải trả giá đắt cho bài học này.
-Sưu tầm-

Kẻ ngốc mới tính toán thiệt hơn, người thông minh chỉ cần phúc hậu.

 Không tranh giành là một loại trí tuệ, cũng là một loại từ bi, làm người ngốc một chút, kỳ thực cũng chẳng thiệt thòi.

Trong xã hội vật chất hiện nay, đại đa số người đều cho rằng những người không biết tranh giành lợi ích, địa vị, tiền tài vật chất là những người ngốc nghếch.
Thế nhưng người xưa luôn tin rằng, những thứ mà con người đạt được trong đời này là do phúc báo của họ, tranh giành chỉ khiến người khác cũng như chính bản thân mình tổn thương.
Người xưa luôn tin rằng, những thứ mà con người đạt được trong đời này là do phúc báo của họ, tranh giành chỉ khiến người khác cũng như chính bản thân mình tổn thương. (Ảnh:chinadaily.com).
Vào thời nhà Tống, Lý Sỹ Hành trong một lần phụng mệnh triều đình đi sứ sang Triều Tiên có võ tướng Dư Anh theo cùng làm phụ tá.
Sau khi hoàn thành sứ mệnh, Triều Tiên có biếu rất nhiều tặng phẩm nhưng Lý Sỹ Hành hoàn toàn không quan tâm để ý đến những vật phẩm ấy. Ông giao hết cho Dư Anh xử lý, chẳng bận tâm tặng phẩm của mình nhiều ít ra sao.
Trên đường trở về, Dư Anh thấy đáy thuyền có chỗ bị thấm nước nên lo lắng rằng những thứ vật phẩm của mình sẽ bị ẩm ướt hết. Thế là ông bèn lấy toàn bộ tơ lụa gấm vóc của Lý Sỹ Hành được tặng đem lót ở đáy thuyền, sau đó đặt những thứ của mình lên trên để tránh bị ẩm ướt.
Khi thuyền đã ra giữa biển khơi rộng lớn thì đột nhiên sóng gió nổi lên, như thể muốn nhấn chìm con thuyền của họ. Lúc ấy con thuyền lại quá nặng nên tình hình lại càng trở nên nguy cấp hơn.
Không còn cách nào khác, thuyền trưởng vội vàng yêu cầu Dư Anh vứt bỏ những vật phẩm đó đi để thuyền nhẹ bớt, nếu không thì thuyền lật mọi người sẽ bị chết.
Dư Anh lúc này cũng vô cùng hoảng loạn, liền vội vàng vơ những vật phẩm trên thuyền ném xuống biển. Khi số vật phẩm bị ném xuống nước ước chừng khoảng một nửa, thì sóng gió ngừng lại, thuyền cũng ổn định lại và họ đã thoát nạn.
Về sau, Dư Anh kiểm tra lại số vật phẩm còn lại trên thuyền thì mới phát hiện những thứ ném xuống biển toàn bộ đều là những vật phẩm của mình. Những tặng phẩm của Lý Sỹ Hành bởi vì chất đống ở dưới đáy thuyền để lót, cho nên hoàn toàn không bị mất mát chút nào, chỉ bị ướt một chút mà thôi.
Đối với những thứ tặng phẩm ấy, hai người họ đã có hai loại thái độ không hề giống nhau. Lý Sỹ Hành bởi “không quan tâm chú ý”, kết quả hoàn toàn chẳng bị mất mát gì, còn Dư Anh thì hết sức “để ý” và còn cố ý bảo quản không muốn tặng phẩm của mình bị tổn hại nhưng cuối cùng lại mất hết.
Kỳ thực, sự việc phát sinh ra hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Lý Sỹ Hành được, là bởi vì ông bình thường xem nhẹ, không màng danh lợi và làm người chính trực. Dư Anh mất, chính là bởi vì ông ta quá mê chuộng tài vật, tính toán, làm người không phúc hậu.
Nếu như nghĩ thoáng một chút, sẽ thấy con người sống trên đời, ngốc nghếch một chút, cũng chẳng vấn đề gì, giản đơn một chút sẽ tốt, không so đo tính toán, cuộc sống càng tự tại an nhiên. Quá tinh minh, quá rõ ràng, quá lanh lợi rồi sẽ có lúc sẽ tự khiến mình bị tổn thương, mất mát, mệt mỏi và khổ sở.
Khi không tranh với đời, xem nhẹ cái được mất, hạ thấp mục tiêu xuống, và xem nhẹ danh lợi, biết suy nghĩ cho người khác thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn nhất nhiều. (Ảnh: dkn.tv)
Khi không tranh với đời, xem nhẹ cái được mất, hạ thấp mục tiêu xuống, và xem nhẹ danh lợi, biết suy nghĩ cho người khác… thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn nhất nhiều. Đừng chỉ vì cái dục vọng cá nhân mà ấp ủ, suy nghĩ tìm mưu tính kế hãm hại người, rồi rốt cuộc chẳng được gì mà còn tự hại chính mình.
Chẳng ai thông minh hơn người khác, cũng chẳng ai ngốc nghếch hơn người khác bao nhiêu. Con người sống trên đời suy cho cùng cũng chỉ được vài chục năm, thua thiệt một chút là hạnh phúc, hà tất gì phải vì chút lợi ích cá nhân mà tính toán chi ly, nâng lên đặt xuống mãi không thôi.
Người tốt rồi sẽ nhận được báo đáp tốt đẹp, người ngốc cũng có niềm hạnh phúc riêng của người ngốc mà đôi khi, những người khôn ngoan, sắc sảo quá lại chẳng thể nào có được. Tâm nhàn là phúc khí tốt nhất của đời người. Người không tranh sẽ tự nhiên ung dung, thản đãng. Người không so đo, tính toán sẽ thường tự nhiên mà vui vẻ, hạnh phúc.
Đôi lời cùng bạn quý:
Trong “Đạo Đức kinh”, Lão Tử viết rằng: “Đạo của bậc Thánh nhân là làm mà không tranh”. Câu nói này khiến nhiều người bừng tỉnh đại ngộ. Suy ngẫm một chút, lời ấy thật đúng! Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.
Trong “Đạo Đức kinh” Lão Tử viết rằng: “Đạo của bậc Thánh nhân là làm mà không tranh”. (Ảnh: youtube.com)
Cuộc sống không tranh giành, ganh đua không phải là ngốc nghếch, đó chính là hành động của những người có Phúc. Con người một khi sống mà ánh mắt luôn nhìn “chằm chằm” vào người khác thì ắt hẳn sống sẽ rất mệt mỏi!
Sống trên đời này đừng nghĩ rằng mọi việc phải mang ra tranh đua cao thấp! Một số thứ trong đời không phải cứ tranh mà có được, mà nếu được rồi cũng chưa hẳn đã vui. Người khác có sự huy hoàng của họ, và bạn cũng có sự tốt đẹp, xán lạn của chính mình.
Mọi thứ của cuộc đời không phải do toan tính có được mà do hành thiện có được, không phải do cầu được, mà là do tu được. Mỗi một bước đi của cuộc đời, đều cần phải trả giá.
Con người ta sống ở đời cần phải trầm tĩnh, cần có đủ thời gian để suy ngẫm để lựa cho mình một cuộc sống riêng, không nhất thiết phải lao vào vòng xoáy tranh tranh đấu đấu để rồi phải mệt mỏi hao tâm tổn sức.

* Theo dkn.

Nhan sắc và khí chất hoàn hảo của cố Công nương Diana hóa ra được thừa hưởng từ người này.

Đã hơn 20 năm kể từ ngày thảm kịch kinh hoàng cướp đi mạng sống của Diana, thế nhưng có rất nhiều người vẫn giữ nguyên lòng ngưỡng mộ và thương tiếc đối với vị Công nương xinh đẹp, nhân hậu mà bạc mệnh.

Công nương Diana sinh vào ngày 1/7/1961 tại Sandringham, Norfolk trong một gia đình quý tộc quyền quý. Bà là con thứ 4 trong số 5 người con của Tử tước Althorp và Bá tước Spencer. Dòng họ Spencer là một trong những gia đình danh tiếng lâu đời nhất tại Anh và có mối quan hệ mật thiết với Hoàng tộc.
Tên tuổi của cố Công nương Diana được nhiều người biết tới kể từ năm bà 20 tuổi. Thời bấy giờ, đám cưới của Công nương Diana với Thái tử Charles đã tốn không biết bao giấy mực của báo giới. Kể cả sau đó, câu chuyện về cuộc hôn nhân không mấy hạnh phúc của 2 người cũng trở thành đề tài khiến nhiều người chú ý.

Công nương Diana,Hoàng gia Anh,Nữ hoàng Elizabeth,Hoàng tử Andrew
Công nương Diana,Hoàng gia Anh,Nữ hoàng Elizabeth,Hoàng tử Andrew
Công nương Diana,Hoàng gia Anh,Nữ hoàng Elizabeth,Hoàng tử Andrew

Công nương Diana sở hữu đôi mắt màu xanh hút hồn, làn da trắng không tỳ vết
và chiếc mũi cao thanh tú.

Đã 21 năm kể từ ngày vụ tai nạn kinh hoàng cướp đi sinh mạng của Công nương Diana, thế nhưng khi nhìn lại những bức ảnh cũ cũng như những trang sách cuộc đời bà, người ta nhận ra 1 điều rằng: Dẫu về sau có thêm bao nhiêu đời Công chúa nữa, nhan sắc và khí chất của Công nương Diana vẫn mãi là bức tường thành khó ai có thể vượt qua.
Và nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành cùng khí chất cao quý ấy không chỉ là vẻ đẹp từ đường nét khuôn mặt, mà còn trở thành biểu tượng nhờ nhiều điều khác như: phong cách thời trang lịch thiệp, trang nhã, lòng nhân ái luôn hướng về các hoạt động từ thiện, tấm lòng yêu thương các con hết mực...
Mới đây, Charles Spencer, em trai của cố Công nương Diana đã chia sẻ một bức ảnh màu về người cha quá cố của họ - ông John Spencer, hồi còn trẻ lên Twitter. Người hâm mộ đã nhanh chóng nhận ra sự giống nhau kỳ lạ giữa Diana và bố của bà.

Công nương Diana,Hoàng gia Anh,Nữ hoàng Elizabeth,Hoàng tử Andrew
Công nương Diana giống cha như hai giọt nước.
Nhiều ý kiến cho rằng, Công nương Diana đã thừa hưởng nhiều nét đẹp từ người bố quý tộc của mình. Được biết, ông John Spencer là bá tước thứ 8 của dòng họ Spencer. Dòng họ Spencer là một trong những gia đình danh tiếng lâu đời nhất tại Anh và có mối quan hệ mật thiết trong một vài đời với gia đình hoàng gia.
Nói về cha của mình, Công nương Diana từng nói rằng: "Ông ấy là một người đàn ông hiền lành, tốt bụng, không có một chút kiêu căng, ngạo mạn nào. Ông ấy là một người cha giàu lòng yêu thương".
Diana cùng 2 chị gái và em trai của mình đã trải qua thời thơ ấu vui vẻ đủ đầy. Ông John Spencer luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các con của mình. Chị em Diana sống êm ấm trong Park House - ngôi nhà của Hoàng gia Anh mà cha Diana thuê.
Đây là ngôi nhà có diện tích rất rộng, có khu vui chơi cho trẻ em và đặc biệt lại là hàng xóm của Hoàng gia Anh. Hồi đó, Hoàng tử Andrew và Hoàng tử Edward (các con của Nữ hoàng Elizabeth II) vẫn thường tới Park House chơi cùng chị em nhà Diana.

Công nương Diana,Hoàng gia Anh,Nữ hoàng Elizabeth,Hoàng tử Andrew  
Ông John Spencer cùng người vợ thứ hai của mình.
Tuy nhiên, không khí gia đình Diana dần trở nên căng thẳng. Cha Diana thích sống ở vùng thiên nhiên rộng lớn, thích câu cá săn bắn còn mẹ Diana lại muốn ở thành phố. Khi Diana lên 7 tuổi, cha mẹ của bà ly hôn. Ông John Spencer nhận nuôi các con của mình.
Vào năm 1976, John Spencer tái hôn với Raine, Nữ bá tước của Dartmouth, con gái của nhà tiểu thuyết gia nổi tiếng Barbara Cartland. Vào năm 1992, bố Công nương Diana qua đời ở tuổi 68 sau một cơn đau tim tại bệnh viện.

21 bức ảnh lịch sử.

1. Mũ là phổ biến ở New York trong thập niên 40.ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

2. Phụ nữ trong thập niên 40 sơn chân để trông giống như họ đang mặc vớ.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

3. Cách người dân Paris di chuyển trong trận lụt năm 1924.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

4. Một người lính đuổi theo một người đàn ông ném đá vào một chiếc xe tăng.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

5. Alfred Hitchcock chia sẻ một bữa ăn với các con sư tử MGM.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

6. Một người đàn ông quyết không chào theo kiểu Salute Nazi (kiểu chào phát xít), 1936

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

7. Một cảnh sát làm giám khảo trong một cuộc thi mắt cá chân những năm 1930.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

8. Một người phụ nữ ngồi chờ làm cái khung cho váy phùn của cô trong một cửa hàng trang phục ở London.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

9. Fidel Castro và Che Guevara trên một chuyến đi câu cá, 1960

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

10. Phụ nữ đấm bốc trên mái nhà vào những năm 30.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

11. Em bé mồ côi đang được vận chuyển đến Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

12. Các hậu quả của D-Day. D-Day là ngày quân Đồng minh đổ bộ lên bãi biển Normandy, Pháp mở màn cho cuộc tổng phản công của quân Đồng minh trên các mặt trận, là cột mốc quan trọng đánh dấu sự thất bại của chủ nghĩa phát xít và tiến tới kết thúc cuộc đại chiến thế giới thứ II (6/6/1944). Đây là một chiến thắng lớn, góp phần quan trọng trong thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

13. Âm thanh WWI Finders  được sử dụng để xác định vị trí máy bay đối phương.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

14. Máy bay chở bia cho quân đội ở Normandy.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

15. Salvador Dali và thú ăn kiến của mình.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

16. Phiên bản thực của Christopher Robin và Winnie the Pooh

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

17. Quần áo tắm bằng gỗ từ những năm 1940.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

18. Một chuyến thử nghiệm tiêm kích Electric Lightning F-1.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

19. Một khái niệm truyền hình di động được tạo ra vào năm 1967

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

20. Một kẻ chạy trốn bị tuần tra biên giới bắt khi ông cố gắng để vào Mexico.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử

21. Dynasphere, phát minh vào năm 1932.

ảnh hình ảnh lịch sử,lịch sử,ảnh hiếm,ảnh hiếm về lịch sử
"Ông Năm" Yersin.
Alexandre Émile Jean Yersin (1863-1943)
Vào thế kỷ thứ 19, người Việt ở Nha Trang gọi Bác sĩ Alexandre Émile Jean Yersin (1863-1943) là “Ông Năm”. Theo cấp bậc nhà binh, ông là Đại tá Quân y trong lực lượng viễn chinh của quân đội Pháp tại Đông Dương với lon mang 5 vạch, tức “quan năm”.
Ông Năm lại còn được người bản xứ gọi thân mật là “Ông Tư” vì theo cách gọi của người Miền Nam, ông là người con út thứ ba trong gia đình của một giáo sư người Pháp và sinh sống tại Thụy Sĩ. Yersin mồ côi cha khi mới ra đời được ba tuần tuổi do bố ông bị xuất huyết não.  
Yersin nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa khi mới 25 tuổi, sau đó ông qua Berlin (Đức) để kịp ghi danh theo học lớp vi trùng học do Bác sĩ Heinrich Hermann Robert Koch (1843-1910) giảng dạy. Giáo sư Koch là một bác sĩ và nhà sinh học nổi tiếng với việc tìm ra trực khuẩn bệnh than (1877), trực khuẩn lao (1882) và vi khuẩn bệnh tả (1883).
Tuy nhiên, nhà khoa học trẻ đầy triển vọng này không chịu hài lòng với môi trường học thuật “đỉnh cao” ở Paris. Năm 1890, Yersin quyết định rời nước Pháp để đến Đông Dương. Đó cũng là lần đầu trong đời ông thấy biển.
Trải nghiệm này khơi nguồn khát vọng được đi và kám phá, sẵn lòng từ bỏ tương lai sáng lạng trong nghiên cứu khoa học ở Paris như là một môn đệ của Louis Pasteur (1822-1895). Trong một bức thư gửi mẹ, Yersin viết từ Đông Dương:  
“Con sẽ không buồn nếu phải rời Paris vì con thấy chán ngấy kịch nghệ, đám thượng lưu làm con kinh tởm, và đời mà không đi khám phá thì còn gì là đời!”.
Chính Pasteur viết thư đề cử Yersin làm bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho hành khách và thủy thủ của hãng tàu Messageries Maritimes. Ông phục vụ trên tàu Volga, một con tàu cũ kỹ chạy bằng buồm và hơi nước trên tuyến hàng hải Sài Gòn – Manila, chuyên chở 67 hành khách cùng vài tấn hàng hóa.
Trong thời gian qua lại giữa hai thành phố Sài Gòn và Manila, Yersin tổ chức những chuyến thám hiểm ở Philippines và Nam Kỳ. Từ đó, ông tích lũy kiến thức cùng kinh nghiệm cho ước mơ khám phá những vùng đất mới tại xứ An Nam.
Cũng trong thời gian này, Bác sĩ Albert Calmette (1863-1933), một môn đệ khác của Pasteur, đến Sài Gòn tìm gặp Yersin. Calmette đề nghị hợp tác trong việc thành lập chi nhánh Viện Pasteur ở Sài Gòn năm 1891, đây là Viện Pasteur đầu tiên ngoài nước Pháp của Viện Pasteur Paris.
Cả chuyến đi cũng như chuyến về, tàu Volga đều dừng lại ở Nha Trang, một vịnh nước yên tĩnh, đầy nắng ấm và cát trắng. Yersin đã bị mê hoặc bởi vùng đất hoang dã với mảng thực vật trên đất liền đẹp rực rỡ, bên trên là những đỉnh núi mây mù chưa từng ai đặt chân đến và cũng chưa hề được vẽ bản đồ.
Với tâm nguyện phục vụ dân nghèo bên cạnh việc nghiên cứu khoa học, Ông Năm đã quyết định chọn Nha Trang làm quê hương thứ hai. Đầu tiên, ông dựng tại Xóm Cồn một căn nhà gỗ đơn sơ để chữa bệnh cho dân nghèo. Yersin khám bệnh miễn phí, ông viết cho mẹ:
“Mẹ hỏi con có thích ngành y không. Có và không. Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng con không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có thể đòi một người bệnh trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học là thiên chức, là mục vụ. Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống.”
Yersin nói tiếng Việt một cách “lõm bõm”. Thứ tiếng Việt “trọ trẹ”, chẳng hạn từ ngữ “người ta” ông dùng để chỉ cả người lẫn vật, số ít cũng như số nhiều. Ông Năm yêu trẻ, ông thường chiếu phim cho trẻ em Xóm Cồn xem. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: “Đừng rầy đánh, người ta sợ.”

Thời bấy giờ, ngư dân tránh được tai họa do bão cũng là nhờ Ông Năm quan sát thiên văn để báo trước cho họ. Ngư dân lại có thói quen hay uống rượu say, cãi lộn, gây gổ, chửi nhau, thậm chí ẩu đả. Ông lặng lẽ lấy máy quay phim, ghi lại những chuyện không hay ấy.
Sau đó, mời dân Xóm Cồn đến xem phim. Ông hỏi họ như vậy có hay không, đẹp không? Ai nấy đều xấu hổ. Nhờ đó mà Xóm Cồn thời ấy gần như hết nạn say rượu, đánh chửi nhau.
Nhà riêng của Yersin tại Nha Trang (nay là Nhà nghỉ Bộ Công An)

Cuộc đời của Ông Năm không chỉ gắn bó với dân chài Xóm Cồn, Nha Trang. Tháng 6/1893, được sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức một đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Đồng Nai lên Di Linh. Cuối cùng, ông khám phá Cao nguyên Lâm Viên.
Trong nhật ký, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D’Lat nằm rải rác trong vùng. Ông viết:
“Từ trong rừng thông bước ra, tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu, giống như mặt biển, tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này.”
Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho thiết lập một khu nghỉ dưỡng dành cho người Âu châu, sau này đó chính là thành phố nghỉ mát Đà Lạt.
Cuối năm đó, với một lực lượng hùng hậu – ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng theo hộ tống – Yersin khởi hành cũng từ Đồng Nai, lên Đà Lạt, rồi đi tiếp đến cao nguyên Đắc Lắc, vào Attopeu ở nam Lào, rồi lại theo hướng đông ra biển, để đến Đà Nẵng vào ngày 17/5/1894.
Cuộc khảo sát lần này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc. Ông ghi lại trong nhật ký:
“Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế làm cho chúng tôi rất mệt mỏi… Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét, mặc dầu đã uống thuốc ngừa…”
Lộ trình các chuyến thám hiểm của Yersin

Trong khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm kế tiếp thì bệnh dịch hạch đã bộc phát ở miền nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương, gây tử vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Hoa. Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp bèn cử Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch.
Yersin là người đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn dịch hạch hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh chỉ là một, nhờ đó ông đã giải thích được phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, trong một bài báo nhan đề “La Peste Bubonique de Hong-Kong” (Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông).
Năm 1895 ông trở lại Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh. Năm 1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.
Cũng vào năm 1896, Yersin đến Quảng Châu, ông được phép công khai tiêm huyết thanh điều chế tại Nha Trang cho một bệnh nhân tại đây, và nghiễm nhiên trở thành người thầy thuốc đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch.
Yersin và lán tre, nơi ông tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch Hồng Kông năm 1894

Năm 1898, Ông Năm trở lại Nha Trang và với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer, ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nơi nghiên cứu nông nghiệp và chăn nuôi.
Ông cho trồng cây cà phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in xử dụng trong ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học.
Là người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở thành chủ một đồn điền cao su, lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền đủ để trang trải chi phí điều hành Viện Pasteur Nha Trang.
Trong thời gian này, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò đã trở thành nguồn thu nhập chính của Yersin, giúp ông có sức mở rộng việc nghiên cứu. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.
Yersin còn ra công nghiên cứu thêm về các loại chim, nghề làm vườn và sưu tầm các loại hoa. Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng, đồng thời khuyên dân làng bỏ tập tục “chặt đốt cây rừng”. Ông còn trồng thử nghiệm cây “canh-ki-na” để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét tại Dran và Di Linh.
Yersin là một con người “đa năng, đa hiệu”. Ông là chuyên gia về nông học nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, kể cả việc nghiên cứu khí tượng. Ông làm một con diều thật lớn, thả lên độ cao một ngàn mét, để quan sát khí quyển và dự đoán giông bão.
Ông giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển mỗi lúc có lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục vụ trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn được lắp đặt trên sân thượng, để cùng nhau nghiên cứu khí tượng.
Trong những ngày cuối đời, Yersin lại gắn bó với niềm đam mê mới: văn chương. Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch những tác phẩm kinh điển của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron, Platon, và Démosthène.
Tượng Yersin tại Nha Trang

Năm 1902, Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường đào tạo y khoa, một bệnh viện và một trung tâm vệ sinh. Theo Yersin, Trường y Đông Dương  “ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi franc!”.Đây là một số tiền lớn, nhưng ông cho rằng vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích hơn nếu so với cái nhà hát ở Sài Gòn.
Yersin được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương, tiền thân của Đại học Y Hà Nội. Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp – sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết – đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.
 
Đại học Y Hà Nội (năm 1930)

Ngày 1/3/1943, Ông Năm từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, thọ 80 tuổi. Ông để lại di chúc với những lời lẽ như sau:
“Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng sẽ làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn.”
Dù vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhiều người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn người đưa tang dài đến hơn ba cây số. Dân chúng coi ông là “công dân Nha Trang” vì ông đã sống ở đây tròn 50 năm.
Di sản của Yersin quá lớn! Toàn dân Việt Nam, hơn mọi dân tộc khác, phải ghi ơn ông mãi mãi. Vua Bảo Đại đã truy tặng ông Bội tinh Kim khánh. Dân nghèo nhớ ông vì lòng nhân hậu. Bệnh nhân không quên công trình y khoa của ông.
Năm 2014 Việt Nam truy tặng ông là “công dân danh dự” và cho ra mắt bộ sưu tập tem bưu chính mang hình ảnh ông.

Tem phát hành chung Việt Nam – Pháp:
Kỷ niệm 150 năm sinh Yersin (1863-1943)

Người Việt đã quá quen thuộc với những cái tên như Pasteur, Calmette và Yersin vì họ đã từng sinh sống và làm việc tại xứ An Nam, tên gọi của Việt Nam hồi thế kỷ thứ 19. Tên của những bác sĩ này, cho đến ngày nay, đã trở thành những tên đường, tên trường học và tên viện nghiên cứu tại nhiều thành phố trên khắp Việt Nam.
Lycée Yersin (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt) là một ngôi trường được khởi công xây dựng năm 1927 và khai giảng năm 1935 là một kiến trúc đẹp và độc đáo của Đà Lạt. Tại thành phố này, cũng mang tên ông còn có Công viên Yersin và một ngôi trường thành lập năm 2004, Đại học Yersin.
Đó là sự tri ân “không biên giới” của người Việt đối với những người nước ngoài đã cống hiến cả đời cho đất nước Việt Nam. Dù họ không mang quốc tịch Việt Nam nhưng người Việt vẫn coi như… đồng bào!


Mộ “Ông Năm” Yersin tại Suối Dầu, Nha Trang

Nguyễn Ngọc Chính.